Khi thấy chó của mình có biểu hiện bị mất nước hoặc xuất hiện 1 số hoặc tất cả các biểu hiện sau đây:
Thở 1 cách bất thường, thở lớn và nhanh
Cực kỳ khát nước
Nhiệt độ trực tràng cao (hướng dẫn xem phía dưới)
Yếu và mệt mỏi
Nôn mửa thường xuyên
Mất phương hướng
Lưỡi đỏ tươi và lợi nhợt nhạt
Vùng da ở miệng và cổ khi bị ấn không phẳng lại
Khó thở
Suy sụp hoặc hôn mê
Nhiều nước bọt
Tăng nhịp tim
Nếu bạn nhận thấy chó của mình có những biểu hiện trên hay nếu bạn nghi ngờ chó bị sốc nhiệt, hãy nhanh chóng đưa chúng vào nơi mát. Loại bỏ những nguồn nhiệt ngay lập tức là việc rất quan trọng. Nếu có thể, hãy đưa chúng vào phòng có điều hòa, nếu không có điều hòa thì dùng quạt để hạ nhiệt.
Cách hạ nhiệt khẩn cấp cho chó
Tùy vào những gì mà bạn có, hãy làm cách nhanh nhất có thể để hạ nhiệt cho chú chó của bạn. Có thể tham khảo một số cách như sau:
Xối trực tiếp nước vào đầu và thân của chó.
Phủ khăn ướt lên chú chó. Đừng để khăn quá lâu tại một chỗ, lông sẽ bị ngấm nước.
Dùng 1 vòi nước chảy nhẹ, nên dùng loại nhỏ giọt hoặc vòi sen.
Nếu có thể hãy thả chú chó của bạn vào 1 bồn tắm hoặc bể nước mát.
Tuyệt đối không được sử dụng đá hay nước đá, nó sẽ thu nhỏ các lỗ chân lông trên bề mặt da khiến cảm nhiệt trầm trọng hợn. Nó có thể dẫn đến shock thậm chí gây hạ thân nhiệt một cách đột ngột.
Quạt và dùng tay làm tơi lông của chó
Quạt gió sẽ giúp làm mát cho chú chó khi đã được làm mát bằng nước, dùng những ngón tay của bạn làm tơi lông của chúng để gió thổi qua lông, giúp không khí đc lưu thông. Lông giống như 1 cái chăn cách nhiệt dùng để giữ nhiệt, do đó làm nó tơi lên để lộ da bên dưới thì không khí có thể giúp làm mát chú chó nhanh hơn.
Đo nhiệt độ cơ thể cho chó
Một con chó bị sốc nhiệt sẽ có nhiệt độ 103ºF (39,5ºC) hoặc cao hơn. Không nên cố đo nhiệt độ cho đến khi bạn đã loại bỏ các nguồn nhiệt và đã thử làm mát. Hơn nữa, chỉ đo nhiệt độ của chó nếu việc đó không làm phiền hay gây khó chịu cho chúng.
Bạn cũng có thể sử dụng các phương pháp điện giải của trẻ em cho chó. Tiếp tục cho chúng uống ít nước khi chúng muốn.
Gọi cho phòng khám hoặc bác sĩ thú y
Khi bạn làm mát cho chú chó, hãy gọi cho một phong khám thú y để được hướng dẫn xử lý đột quỵ nhiệt ở chó. Ngay khi nhiệt độ trực tràng đạt đến mức thích hợp, hãy đưa chú chó đến phòng khám (cấp cứu) thú y. Nên cảnh giác, ngay cả khi chú chó không còn triệu chứng nào, chúng vẫn có thể đang bị nội thương. Tốt nhất nên đi khám lại để chắc chắn chú chó đã hoàn toàn khỏe mạnh.
Xử lý khi chó bị sốc nhiệt
Quan trọng nhất là bạn phải bình tĩnh. Nếu bạn mất bình tĩnh, chú chó có thể cảm nhận được và mất bình tĩnh theo, làm tình hình trở nên nghiêm trọng hơn. Thay vì thế, hãy giữ bình tĩnh nhất có thể. Dùng phương pháp khoa học, hợp lý để hồi phục nhiệt độ của chúng về bình thường và nhanh chóng đưa chúng đi thú y. Giữ bình tĩnh để chắc chắn rằng bạn đang làm hết sức có thể để tăng cơ hội sống sót cho chú chó của mình. Cảnh giác về những thứ có thể tạo shock nhiệt ở chó.
Nguyên nhân khiến chó bị sốc nhiệt
Bị nhốt trong ô tô, ngay cả khi đã hé mở cửa kính, cả khi không phải là mùa hè. Chú chó vẫn có thể bị shock nhiệt vào một ngày u ám nếu bị nhốt trong xe ô tô, ngay khi cửa sổ đã hoàn toàn được kéo xuống. Bên trong xe ô tô đang đỗ nhiệt độ có thể lên tới 150ºF hoặc 66ºC vào mùa hè, vì thế có thể gây shock nhiệt cho chó chỉ trong vòng vài phút.
Bị nhốt ở ngoài trời không có bóng mát cũng như nước uống.
Bị đặt vào điều kiện khó thở, những nơi ngột ngạt thiếu không khí.
Vận động quá mức trong điều kiện ấm hoặc nóng.
Những chú chó béo phì có nguy cơ bị sốc nhiệt cao hơn.
Các giống chó có mõm ngắn như English Bulldog hoặc Pug dễ bị sốc nhiệt hơn các giống chó khác.
Những chú chó được lai từ những giống chó ở vùng lạnh hay có lông dày, ví dụ giống Alaskan Malamute cũng dễ bị sốc nhiệt.
Một số kinh nghiệm được chia sẻ
Chó không thể đổ mồ hôi, chúng phải thở dốc để giải phóng nhiệt. Không thể sử dụng các hệ thống làm mát dạng hơi dành cho người. Tránh cho chúng vận động vào những khung giờ nóng nhất trong ngày của những tháng nóng là rất quan trọng.
Như các bạn đã biết các chú cún chỉ có 2 tuyến mồi hôi chính để bài tiết nhiệt: phần lớn ở lưỡi và 1 phần nhỏ khác ở gan bàn chân. Đối với các loại chó lông dài thì thường dưới gan bàn chân chúng có 1 lớp lông bao quanh các kẽ chân do thích nghi với môi trường xứ lạnh để giảm sự thoát nhiệt. Nhưng mùa hè ở Việt Nam thì lông ở gan bàn chân của chúng lại phản tác dụng, chúng giữ nhiệt làm khó thoát mồ hôi.
Khi cún chạy trên đường nhựa, chúng thu nhiệt qua gan bàn chân và làm cơ thể chúng nóng lên. Do sự nóng lên nên các bé cần thở nhiều hơn để cung cấp oxy, nhưng trời nóng làm lượng oxy hòa tan trong không khí giảm khiến các bé bị thiếu oxy gây đột quỵ.
Lưu ý với chó có lông dài cũng như lông ngắn
Hạn chế vận dộng vào mùa hè, muốn cho đi dạo thì nên cho đi sau 10h tối sau khi trời tắt nắng hoặc đi vào lúc sáng sớm khi trời còn ít nắng. Vào những khung giờ chúng ta nghĩ là mát nhưng vì chúng ta đi giầy, dép nên không cảm nhận được, nhưng những chú cún chân tiếp xúc trực tiếp với đất, lúc này là không tốt.
Cho các bé uống nước có pha đường gluco và orezol để bù nước vào mùa hè. Tăng khả năng điện giải và đề kháng. Không cho chó ra đường vào ngày nắng nóng, nhất là đối với các bé cún có bộ lông tối màu, hoặc gam màu nóng. Vì theo khoa học, những màu này hấp thu nhiệt rất mạnh.
Không cho các bé cún đi biển. Chân chạy tiếp xúc trực tiếp trên cát nóng sẽ làm cún bị yếu do nhiệt độ tăng cao gây thở dốc. Do nóng quá chúng lao xuống nước, cũng có thể đi từ dưới nước lên sau khi bơi. Điều này dễ làm cho chúng bị cảm gây hô hấp kém và đột tử sau vài phút. Không cho chó giao phối trước 9h tối.
Không cho chó đột ngột từ thời tiết nóng vào điều hòa. Việc này gây cho chó con bị cảm do thích nằm trước gió điều hòa. Phải có quá trình thay đổi dần dần sau 15 phút. Hạ dần nhiệt điều hòa từ từ.
Thời tiết mùa hè, rất nhiều các bệnh lây truyền. Vì thế, cho cún ăn ít hơn và giảm lượng đạm đi. Vì nếu bị mắc phải vấn đề đường ruột mà chó ăn nhiều đạm sẽ làm tăng độ phát nặng của bệnh. Với các bé cún có lông ở gan bàn chân thì nên dùng kéo nhỏ tỉa sạch lông ở gan bàn chân để cho việc thoát mồi hôi và giải phóng nhiệt được tốt hơn.
(Nguồn: theo www.bacsithuy.org – hình ảnh: internet)
Chó bướm (Papillon) là một loại chó cảnh được yêu thích. Papillon còn được gọi là chó Bướm bởi đôi tai có hình dáng của đôi cánh bướm. Papillon còn có cái đuôi dài với chùm lông phất phơ luôn cong vút trên lưng, chính vì vậy nên chúng còn có tên khác là Spaniel Sóc. Papillon là giống chó thông minh, tình cảm thích đùa giỡn. Ngoài ra còn có một giống chó Papillon khác có tai cụp gọi là Palene. Tên gọi của chúng có nghĩa là “con bướm” trong tiếng Pháp.
Tổng quan
Papillon là một trong những loài chó cổ xưa nhất, được ghi nhận trong lịch sử châu Âu từ 700 năm trước. Giống chó này lúc đầu được gọi The epagneul nain hay Spaniel tý hon. Sau đó chúng được biết đến như là Continental Toy Spaniel và giống chó nhỏ này đã xuất hiện trên các bức bích họa ở Ý vào các năm từ thế kỷ 13 đến 15, trong giai đoạn Phục Hưng. Chúng phổ biến tại Ý chính trong giai đoạn Phục Hưng và sau đó được hoàn thiện thêm bởi các nhà lai tạo giống người Pháp. Các tài năng chính của giống chó này là trông nhà, biểu diễn, tham dự các cuộc thi đòi hỏi sự nhanh nhẹn và trí thông minh.
Đặc điểm
Đây là một giống chó cảnh cỡ nhỏ. Chó có tầm vóc nhỏ, thấp lùn, cao 20 cm, dài 38 cm, nặng 5-5,5 kg, trong đó chó đực cao từ 8-11 inches (20–28 cm), chó cái cao 8-11 inches (20–28 cm), chó đực nặng từ 8-10 pounds (4–5 kg), chó cái nặng từ 7-9 pounds (3–4 kg). Giống chó này có hình dạng rất ngộ nghĩnh đầu to, mõm rộng và rất ngắn hầu như liền tịt với mũi, mũi rộng chia thuỳ, tai to có lông dài phủ xuống 2 bên, mắt to đen hoặc nâu xẫm, 4 chân thấp lùn. Đôi tai có hình như hai cánh bướm luôn vểnh hoặc được cắt cho vểnh.
Chúng có một vệt lông trắng điển hình trên mũi. Mõm của chó Bướm ngắn và hơi nhọn. Tất cả tạo ra cho loại chó này một dáng vẻ thông minh và nhanh nhẹn. Chó có bộ lông dài xù màu đỏ, đen hay tam thể trên nền trắng, lựơn sóng màu hạt dẻ, đôi khi có màu vàng xẫm hoặc trắng sữa. Cái đuôi lông xù của nó vắt trên lưng. Bộ lông dài và rủ có màu trắng pha với những miếng vá có các màu khác nhau. Các màu khác ngoài màu trắng phải phủ kín hết mắt và 2 mặt của tai. Bộ lông dài cần được chải hàng ngày để không bị rối.
Đôi khi chúng có vấn đề về xương bánh chè, có thể chỉnh sửa nhờ phẫu thuật, chúng có xương chẩm kém phát triển và lộ thóp. Một số cá thể khi trưởng thành sẽ mất đi lỗ mềm này, một số cá thể thì vẫn giữ nguyên tới lúc chết. Vì vậy chúng cần được bảo vệ để tránh các cú va chạm vào vị trí dễ bị thương tổn. Tuổi thọ Thông thường 13 năm, có những con sống đến 16 năm. Cần chăm sóc hàng ngày cho bộ lông dài mượt của chúng. Giống chó này thông thường khá sạch sẽ và không có mùi hôi. Cần cắt móng chân và đánh răng cho chúng thường xuyên vì hay bị cao răng.
Tập tính
Đây là giống chó thân thiện, thông minh và rất thích các hoạt động ngoài trời. Chúng rất thích vui chơi và đùa nghịch nhưng cũng luôn tỏ ra kiên nhẫn, bình tĩnh. Rất thích được vuốt ve và yêu quý chủ nhưng cũng luôn cảnh giác đối với người lạ. Papillons có thể huấn luyện để thực hiện một số trò đơn giản. Một số dòng có thể dễ sợ hãi, căng thẳng. Chúng còn có thể khó dạy dỗ đi vệ sinh đúng chỗ, thuộc loại dễ dạy bảo. Papillon có quan hệ tốt đối với trẻ con lớn. Chúng có thể tỏ ra hơi hiếu chiến. Đối xử tốt với mèo và gia súc khác nếu được hòa đồng sớm từ lúc còn nhỏ.
Mặc dù đây là loại chó thích hợp cho cuộc sống thành thị nhưng đôi khi chúng lại không phù hợp với căn hộ vì chúng có bản năng bảo vệ chủ quyền rất mạnh nên chúng sủa khá nhiều và to khi phát hiện ra các tiếng động và vật thể lạ. Loài chó nhỏ này thích chạy nhảy nhưng cũng sẽ không làm phiền nhiều nếu như bị nhốt trong nhà vài ngày. Giống như các loại chó khác, chế độ tập luyện thường xuyên sẽ đem lại lợi ích cho chúng về mặt sức khỏe.
Tên khác
Phalène
Continental Toy Spaniel
Epagneul Nain Continental
Bichon Frise là (/biːʃɒnˈfriːz/ or /biːʃɒnfrɪˈzeɪ/; tiếng Pháp: [biʃɔ̃ fʁize], nghĩa là chó đùi cong) là một loại chó nhỏ thuộc giống chó Bichon. The Bichon Frise là một thành viên của giống chó trong nhóm phi thể thao tại Mỹ,và thành viên thuộc nhóm chó cảnh tại Anh.
Từ nguyên học
Chó Bichon Frise có nguồn gốc từ loài chó Barbet hoặc Water Spaniel và chó săn vịt. Từ bichon xuất phát từ tiếng Pháp Trung cổ bichon (“chó nhỏ lông dài”), một từ giảm nhẹ của tiếng Pháp cổ biche (“bitch, chó cái”), từ tiếng Anh cổ bicce (“bitch, chó cái”), liên quan tới tiếng Bắc Âu cổ bikkja (“chó cái”) và tiếng Đức Betze (“chó cái”).
Một số người suy đoán nguồn gốc của bichon là kết quả của tách chữ hoặc rút gọn của barbichon (“chó săn vịt nhỏ”), một chữ chuyển hóa của barbiche (“chó xù lông”). Tuy nhiên, đây là khó xảy ra, nếu không muốn nói là không thể, khi từ bichon (chứng thực năm 1588) cũ hơn từ barbichon (chứng thực năm 1694). Trong khi “Bichon Frise” được bắt nguồn từ tiếng Pháp “Bichon à poil frisé” có nghĩa là “chó đùi cong,” cách đánh vần tiếng Anh được ưa chuộng không bao gồm dấu và được viết một cách đơn giản “Bichon frise.”
Miêu tả
Ngoại hình
Bichon Frise là loại chó nhỏ có cân nặng xấp xỉ 5–10 kg (10–20 lbs) và đứng khoảng23–30 cm (9–12 in) tới vai, ngoài ra có những con lớn hơn một chút không phải là hiếm. Phần sọ hơi tròn và mõm không nhọn. Đuôi được chải để dài và xoăn và được cuộn sau lưng. Nó có một cái mũi màu đen và đôi mắt to tròn đen; bộ lông trắng xoăn dày và ít rụng (nhiều điểm giống với chó poodle ở đặc điểm này), mặc dù nhiều giống chó có xu hướng có ít lông xoăn hơn những loài khác.
Một ít lông màu da bò, màu kem hoặc màu mơ có thể thấy quanh tai, mõm, bàn chân hoặc trên thân, nhưng thông thường các màu này không vượt quá 10% cơ thể của nó. Màu lông tiêu chuẩn FCI / AKC là màu trắng tinh khiết; Các màu khác như màu quả mơ hoặc màu xám không được công nhận. Một bộ lông trắng được ưu tiên trong vòng biểu diễn. Đầu và chân tương xứng với kích cỡ cơ thể, và tai và đuôi là tự nhiên (không được gắn hoặc cắt) Bộ lông được cắt tỉa thường để làm cho lông nhìn trông có độ dài ngang nhau. Bichon Frises có thể có trí thông minh trung bình cao.
Tập tính
American Kennel Club (AKC) để cập đến cho Bichon Frise là “vui vẻ” và “xinh xắn”, và tiêu chuẩn về giống loài để gọi một con chó là “”nhẹ nhàng nhã nhặn, nhạy cảm, vui tươi và tình cảm”. Chó Bichon Frise thích làm bạn với con người và đòi hỏi nhiều sự chú ý của bạn. Chúng nói chung là rất hòa đồng và cư xử ngoan với chủ đưa chúng cùng đi chơi. Chúng đáng yêu, tình cảm và thông minh. Bichons kết thân tốt với trẻ em vì chúng tinh nghịch và có nhiều năng lượng. Nếu được nhận vào một khu vực riêng và được chủ cổ vũ, chúng có thể trở nên rất gắn bó. Được nuôi để làm bạn đồng hành, Bichon Frise có xu hướng hòa thuận với cả trẻ em và các động vật khác.
Bichon Frises rất ngoan ngoãn nếu được bắt đầu huấn luyện sớm và liên tục không ngừng.
Tên khác
Bichón Tenerife
Bichon à poil frisé
Nguồn gốc
Canary Islands (Tây Ban Nha)
Belgium
Đặc điểm
Cao
23–28 cm (9–11 in)
Bộ lông
Chiều dài trung bình, kết cấu mịn với lọn lông xoắn
Rottweiler hay còn gọi là rốt hoặc rotti là một giống chó có nguồn gốc tử Đức được dùng như loại chó chăn gia súc nhưng thường được huấn luyện để trở thành chó nghiệp vụ. Chúng còn là những con chó chiến đấu tốt và có khả năng chịu đựng được các vết thương. Rottweiler còn là loài chó khoẻ mạnh, thông minh. Dù trông vẻ ngoài to xác và dữ dẵn nhưng chúng biết nghe lời và là những người bảo vệ tốt. Chúng ít thân thiện với người lạ nhưng với người quen lại tỏ ra dễ mến. Chúng là giống chó khá điềm tĩnh.
Nhìn chung, Rottweilers là một giống chó mạnh mẽ với thói quen sống bầy đàn và bản năng bảo vệ. Hành vi nguy hiểm tiềm tàng trong Rottweilers thường do sự vô trách nhiệm, lạm dụng, bỏ bê, thiếu huấn luyện của con người. Tuy nhiên, sức mạnh của Rottweiler không nên bỏ qua vì chúng là một trong những giống chó nguy hiểm, lực cắn của chúng có thể lên đến 136 kg.Rottweiler là một giống chó khá phổ biến nhưng giá bán của nó lại lên đến 3.000 USD đối với mỗi con.
Tổng quan
Rottweiler được mang tên một thị trấn miền nam nước Đức, nơi phát hiện ra giống chó này. Giống chó Rottweiler có nguồn gốc từ giống chó ngao Ý. Chúng được lai tạo tại thành phố Rottweil bang Wurttemberg, Đức và xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1800, giống chó mới này dần dần trở nên nổi tiếng vào những năm giữa thể kỷ 20 nhờ các nhà lai tạo giống ở Stuttgart. Trong lịch sử, chúng được dùng như loại chó chăn gia súc. Tổ tiên của nó là loài có cổ xưa từ thời La Mã, phục vụ cho quân đội trong chiến tranh, săn bắn thời trung cổ hay kéo xe thồ chở sửa thay thế cho ngựa hoặc chăn giữ cừu là những điều con người tận dụng được từ loài chó này, từ 1910 cho đến nay giống cho này được chính thức công nhận là chó cảnh sát. Như vậy, ban đầu nó được sử dụng để chăn gia súc, mặc dù cuối cùng nó được huấn luyện để trở thành một con chó có thể được sử dụng cho nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu, hướng dẫn cho người mù hoặc là cảnh sát và chó bảo vệ.
Các đặc tính, ưu điểm tiêu biểu của giống chó này là khả năng theo dõi, chăn dắt gia súc, canh gác, bảo vệ, chó cảnh sát, kéo xe và chó chiến đấu. Đây là giống chó có thể phục vụ trong những công việc đặc biệt, nó có những tính cách mạnh mẽ, Ngày nay, Rottweiler được sử dụng trong việc canh gác, tìm kiếm, bảo vệ, trinh sát của lực lượng cảnh sát và bộ đội biên phòng, ở nhiều nước giống chó này được coi như một người bạn, một phương tiện canh gác, giữ nhà, nhìn chung chung là hiền lành và điềm tĩnh, mặc dù nó có thể không chào đón người lạ vì những bản năng lãnh thổ và canh gác.
Đặc điểm
Rottweiler là một con chó cỡ lớn, không quá nặng cũng không quá nhẹ, không quá cơ bắp cũng không gầy yếu. Một con chó tiêu chuẩn là thân hình phải mạnh mẽ và rắn chắc, cho thấy toàn bộ sức mạnh, tính linh hoạt và tính điềm tĩnh.
Kích cỡ
Đặc điểm nổi bật của giống chó này là tầm vóc lớn, có hình dáng cân đối và vững chắc. Rottweiler có thân hình to lớn và mạnh mẽ. Hệ cơ bắp chúng phát triển rất tốt, tuy vậy không ảnh hưởng đến tính nhanh nhẹn của chúng.
Theo tiêu chuẩn Rottweiler của FCI, giống thuần chủng (cỡ trung bình- đại) có chiều cao (tính đến điểm cao nhất giữa 2 bả vai- còn gọi là u vai) từ 61 – 69 cm (24 – 27 inches) với con đực, từ 56–63 cm (22 – 25 inches) với con cái. Chúng cân nặng từ 50 kg đến 60 kg (110 and 132 lbs) với con đực trưởng thành, từ 35 kg đến 48 kg (77 and 105 lbs) với con cái trưởng thành. Cân nặng phải cân xứng với chiều cao. Chiều dài thân, tính từ xương ức đến xương ụ ngồi không vượt quá chiều cao tính đến vai, nhiều nhất là 15%.
Đầu của nó có dạng hình cầu, khoảng cách giữa hai tai lớn, mõm to bè. Mắt có màu nâu đen rất linh hoạt, có đốm vàng ở gò má trên mắt, mõm, bốn chân. Đầu chúng to và nặng. Trán tròn, cổ có chiều dài trung bình, rất cơ bắp, hơi cong, không có phần da bùng nhùng dưới cổ. Hàm rất phát triển và rất khoẻ, cộng với hàm răng khoẻ và sắc bén, hàm trên và hàm dưới rộng và khỏe, bộ răng hoàn chỉnh gồm 42 răng, mặt cắt kéo, răng cửa hàm trên gối lên hàm dưới.
Lưng chúng thẳng, khỏe, vững chắc. Hông ngắn, khỏe và sâu. Mông rộng có chiều dài trung bình, hơi tròn, không phẳng cũng không gầy. Ngực nở,rộng và sâu (ước chừng 50% chiều cao vai) phần ngực trước rất phát triển. Bụng: phần eo không tóp lại. Mắt có màu sẫm luôn biểu hiện thiện chí và trung thành, phục tùng. Tai hình tam giác, luôn hướng về phía trước. Mũi đen và to. Môi có màu đen và thậm chí phần phía trong của mõm cũng có màu sẫm. Vai rất phát triển. Cẳng tay rất cơ bắp và phát triển.
Thể chất
Rottweiler sống lâu khoảng 10 – 12 năm. Trước đây, chó Rot thường được bấm bỏ đuôi khi mới sinh ra. Thông thường khi mới sinh người ta thường bấm bỏ móng chân bên cạnh cùng với lúc bấm đuôi. Hiện nay, việc cắt đuôi này đã bị cấm. Bộ lông ngắn, cứng và khá dày. Chúng có bộ lông hấp dẫn và có tính di truyền tốt. Thông thường có màu đen pha nâu ở các phần má, mõm, chân và bàn chân.
Đôi khi có thể gặp các cá thể có màu hung đỏ pha nâu. Rất hiếm gặp màu lông sáng hơn. Chó Rot cái thường rất mắn đẻ, có trường hợp sinh được 12 chó con. Các bệnh có thể gặp như chúng dễ gặp các căn bệnh liên quan đến di truyền và huyết thống, dễ ngáy, hay bội thực nếu ăn nhiều, dễ mắc bệnh quặm mắt. Bộ lông mượt và ngắn dễ chăm sóc, chỉ tắm cho chúng khi cần thiết.
Dị dạng
Những con chó rốt có những biểu hiện sau đây được xem là dị dạng như đầu kiểu đầu chó săn hẹp, quá ngắn, quá dài hay thô, trán phẳng đầu quá nhỏ. Trán dài hoặc mõm nhọn, mũi phân nhánh, mũi khoằm, mũi có màu nhạt hay có đốm. Môi lòng thòng, có màu hồng hoặc lốm đốm, khóe miệng có thể nhìn thấy được. Hàm hẹp, gò má lộ rõ rệt. Mặt cắn của răng có hình mặt cắn càng cua. Tai nằm dưới thấp, dài và nặng nề, lỏng chỏng, hướng ra sau. Tai vểnh hoặc không đối xứng.
Mắt màu nhạt, sâu hay tròn. Cổ quá dài, ốm thiếu cơ bắp hay có yếm. Thân quá dài, quá ngắn hay quá hẹp. Lưng quá dài, yếu ớt lưng võng hay cong lên, mông quá dốc, quá ngắn phẳng hay quá dài. Ngực quá phẳng hoặc quá tròn. Đuôi không được quá cao cũng như quá thấp. Chân trước hẹp hoặc vòng kiềng. Vai quá dốc. Cánh tay trên quá ngắn thẳng, dài. Cổ chân yếu và thẳng. Bàn chân bè ra. Ngón chân quá thẳng hoặc cong. Ngón chân méo mó. Móng chân có màu nhạt. Chân sau đùi phẳng, khuỷu chân quá sát. Khuỷu chân hẹp (cow hock) hay khuỷu mở rộng. Có móng đeo.
Da không được có lớp da nhăn trên đầu. Bộ lông mềm, quá ngắn hay quá dài, lông xoăn, không có lớp lông bên dưới. Màu lông các vệt nâu sai chỗ, không rõ ràng, quá dàn trãi, chó đực mang vẻ chó cái hay chó cái mang vẻ chó đực. Tính cách bồn chồn, nhút nhát, sợ súng, hoang dã và nguy hiểm, thận trọng quá đáng, hồi hộp. Quặm mắt, mắt có màu vàng, hai mắt khác màu. Răng hô hay móm, mất một trong các răng răng cửa, răng nanh, răng tiền hàm, răng hàm. Lông dài hay quăn. Màu lông khi chó có màu khác với màu của Rottweiler chuẩn. Đuôi: đuôi xoắn lại, đuôi vòng, đuôi lệch qua một bên.
Ưu điểm
Chó rốt có những ưu điểm quan trọng sau:
Sự chắc chắn: Sự quyết tâm của giống chó Rottweiller tốt. Trải qua hàng thế kỷ được nuôi dưỡng để thực hiện các nhiệm vụ khác nhau, người ta đã phát triển các giá trị trong bản thân cũng như đầy đủ các tố chất để làm việc. Chúng cần một người chủ thực sự, cứng rắn và kiên định, điều khiển. Chúng không chịu phục tùng hoàn toàn đối với những sự ép buộc và không công bằng. Đối với người chủ mà chúng tin tưởng và kính trọng, chúng sẽ tuân thủ với một sự nhiệt thành.
Sự trung thành: Sự cống hiến của Rottweiller cho gia đình chủ là một việc rõ ràng, không nghi ngờ. Chúng có bản năng tiềm tàng là bảo vệ cho ngôi nhà và gia đình nhà chủ. Nhưng một trong những mong muốn lớn của chúng là cùng được tham gia vào các hoạt động cùng với gia đình chủ. Khi liên tục bị xích hoặc nhốt riêng, các vấn đề không tốt về hành vi, tính cách của chúng sẽ có xu hướng phát triển.
Sự mạnh mẽ: Sự quyết tâm, sự cứng rắn và ổn định về thể trạng và tinh thần của Rottweiller cao. Như một lẽ đơn giản, chúng là một giống chó luôn có độ tin cậy về sự dẻo dai, mạnh mẽ, cả về sức mạnh thể chất lẫn sự ổn định về thần kinh. Chúng luôn xuất hiện như một sự cảnh báo, với đầy sức lực và không sợ hãi. Sức mạnh và năng lượng của chúng đã tạo ra bản năng chăn lùa bầy gia súc của chúng trong quá khứ, khi đó, chúng luôn đi theo bầy gia súc để ép buộc và thống trị chẳng hạn như tìm và đối mặt với những con bò đực thống lĩnh trong bầy, sử dụng sức mạnh và bộ răng để đe dọa và kiểm soát bầy gia súc.
Sư độ lượng: Sau những trận chiến dữ dội, Rottweiller không nhớ sự đe dọa đã được bỏ đi hoặc bị khống chế. Chúng không có sự thù hằn, đố kỵ hoặc oán giận. Đặc tính này làm chúng trở thành một giống chó bảo vệ và thể thao lý tưởng.
Thần kinh tốt: Với bản chất tốt, cơ bản là trầm tính, thích trẻ nhỏ, chúng có khả năng chịu đựng các tác động về thần kinh và đau đớn về thể chất của chúng dẫn đến kết quả là chúng sẵn dàng duy trì trạng thái ngồi và xem mà không có phản ứng nông nổi hay hung dữ. Chúng cũng sẵn sàng chấp nhận những bàn tay nghịch ngợm của trẻ nhỏ. Tuy nhiên, chúng có xu hướng tránh sang một bên nếu chúng nhận được những trò đùa thô bạo của những đứa trẻ trong gia đình.
Không sợ hãi: Một đặc điểm nổi bật và giá trị của Rottweiller là sự dũng cảm trong bản năng của chúng. Chúng không dễ bị đe dọa, và thực sự sẵn sàng đối mặt với thử thách. Nếu chúng cảm thấy đang ở trong trạng thái không yên tâm, chúng sẽ báo hiệu bằng những tiếng Gừ hoặc sủa. Nếu sự cảnh báo của chúng không được để ý tới, chúng không ngại có phản ứng mạnh hoặc chiến đấu.
Tinh thần chiến đấu: Tính chiến đấu của Rottweiller đã được nâng cao. Trong bảo vệ, chúng tìm ra những cách chiến đấu để chiến thắng chứ không chọn cách chạy thoát khỏi những mối đe dọa. Tuy nhiên, khả năng chiến đấu thực sự của Rottweiller không nằm ở chỗ chống lại sự đe dọa của kẻ địch. Chúng nhìn các đối thủ của chúng như những kẻ địch mà chúng cần phải đánh bại hơn là sợ hãi tới mức phải chạy trốn. Chúng chiến đấu với sức mạnh và tinh thần phải chiến thắng.
Tập tính
Rottweiler là giống chó rất điềm tĩnh, dễ dạy dỗ, can đảm và tận tuỵ đối với chủ nhân và gia đình chủ. Chúng có tính cách rất đáng tin. Với bản năng bảo vệ, chúng luôn bảo vệ gia chủ một cách tốt nhất. Là những con chó chiến đấu, chúng có khả năng chịu đựng được các vết thương. Tuy vậy, cần phải nuôi dạy chó Rot một cách chuyên nghiệp vì chúng có thể trở thành giống chó hung dữ rất nguy hiểm. Nếu dạy dỗ đúng cách, chúng sẽ trở nên một người bảo vệ trung thành, một người bạn đáng yêu và dễ chịu.
Chó rottweiler còn là một người bạn có thể đồng cảm và giúp đỡ con người vượt qua được những chấn thương tâm lý, làm giảm căng thẳng trong công việc, sự hiện diện của một chú Chó rottweiler giúp con người bớt căng thẳng và lo lắng hơn, giảm đi căn bệnh trầm cảm. Chó rottweiler có sự nhạy bén về thính giác có thể phát hiện bệnh động kinh có thể cảnh báo bệnh nhân động kinh trước khi cơn co giật xảy ra. Chúng sẽ cảnh bào con người bằng cách sủa để cảnh báo, giúp tránh xa các chất dị ứng. Chúng còn có thể chữa lành vết thương đơn giản bằng cách liếm, nước bọt của cả con người và loài Chó Rottweiler, có thể giúp kích thích các dây thần kinh, cơ bắp.
Vì có trọng lượng và kích thước lớn, chúng đòi hỏi người chủ phải thật khoẻ mạnh để thích ứng. Chó Rot theo bản năng là giống chó canh gác rất khôn ngoan và chắc chắn. Nhờ có trí thông minh chó Rot thường được sử dụng trong các ngành công an, quân đội, hải quan … Chính vì kích thước to lớn, chó Rot cần được dạy dỗ và luyện tập từ lúc còn non. Sự chăm sóc chu đáo sẽ tránh cho chúng trở nên hung dữ. Để cho chúng được phát triển toàn diện cần phải có sự chăm sóc thường xuyên cũng như sự hoà đồng với các cá thể khác.
Chúng có thể tỏ ra hung dữ với các con chó khác, vì vậy cần phải cho đeo rọ mõm khi đi ra nơi công cộng. Khi đã được nuôi dạy chu đáo, chúng sẽ trở nên người bạn chơi thân thiện với trẻ nhỏ. Cần phải cho chúng tiếp xúc với các súc vật nuôi khác khi chúng còn nhỏ. Thông thường người thân và bạn bè của chủ nhà sẽ được chúng đón tiếp niềm nở. Người lạ tốt nhất là không nên đến gần chúng. Hiện nay có 2 giống chó Rot: chó Rot Đức và chó Rot Mỹ. Chó Rot Đức thường được huấn luyện để trở thành chó nghiệp vụ, còn Rot Mỹ thường được nuôi dạy để sống trong điều kiện gia đình.
Chó Rott Đức có thể sống trong điều kiện căn hộ nếu có không gian dành cho nó tập luyện. Tuy vậy chúng tương đối thụ động trong không gian hẹp và thoải mái nhất khi ở không gian rộng như là sân vườn. Hoạt động của chúng rất cần có các hoạt động tích cực đòi hỏi thể lực. Chạy chơi ở trong rừng hay trên cánh đồng sẽ làm chúng rất thoải mái. Thích bơi lội hoặc chạy theo xe đạp. Ngoài ra còn rất thích chơi với bóng.
Tiếng xấu
Rottweiler thỉnh thoảng có tiếng xấu vì cắn người. Bởi vì nó là chó lớn và mạnh, nên vết cắn có thể nguy hiểm. Đây là một giống chó dữ, rottweiler là giống chó có bản năng bảo vệ mạnh mẽ, luôn sẵn sàng bảo vệ gia chủ một cách dữ dội nhất. Tuy nhiên, phải nuôi dạy loài này một cách chuyên nghiệp và kiên trì, nếu không chúng sẽ trở nên hung dữ rất nguy hiểm.
Một cuộc nghiên cứu của Centers for Disease Control and Prevention, xem xét những vết thương mà bị chó cắn gây chết người ở Hoa Kỳ giữa năm 1979 và 1998, đưa tới kết luận, các loại chó như Pit Bull cũng như Rottweiler cộng lại gây hơn phân nửa tất cả các vết cắn chết người gây ra bởi chó. Một nghiên cứu ở Thụy Sĩ được công bố vào năm 2002 về vấn đề các vết thương vì bị chó cắn mà phải điều trị đưa tới kết quả, là loại chó Rottweiler so sánh về số lượng chó thường cắn người nhiều hơn là các loại chó khác. Trong một nghiên cứu của viện bảo vệ súc vật và về cách xử sự của thú vật của Đại học tự do Berlin cho thấy Rottweiler (sau Chó chăn cừu Đức) có nhiều ứng xử không bình thường.
Rottweiler ở vài bang Đức bị đưa vào danh sách chó, mà bị giới hạn nuôi giữ. Vì một thống kê trong đại hội các thành phố vào năm 1997, Rottweiler kể từ ngày 1 tháng 2 năm 2002 bị xếp vào danh sách loại 2 những loại chó đấu ở Bayern và ở một số bang loại chó này phải bị kiểm soát tánh tình trước khi được nuôi. Ở Áo Rottweiler cũng bị đưa vào danh sách chó giới hạn ở Hạ Áo và Viên. Ở Thụy Sĩ 12 trong số 13 Kantone, Rottweiler cũng bị đưa vào danh sách, việc nuôi loại chó này phải xin phép. Ở Genève (bang) và Valais (bang) loại chó này bị cấm không được giữ, gây giống và nhập cảng vào.
Pug, hay thường được gọi là chó mặt xệ, là giống chó thuộc nhóm chó cảnh có nguồn gốc từ Trung Quốc, chúng có một khuôn mặt nhăn, mõm ngắn, và đuôi xoăn. Giống chó này có bộ lông mịn, bóng, có nhiều màu sắc nhưng phổ biến nhất là màu đen và nâu vàng. Cơ thể của Pug nhỏ gọn hình vuông với các cơ bắp rất phát triển.
Pug được đưa từ Trung Quốc đến châu Âu vào thế kỷ thứ XVI và trở nên phổ biến ở Tây Âu nhờ nhà Orange-Nassau của Hà Lan và nhà Stuart. Tại Vương quốc Anh, vào thế kỷ thứ XIX, Nữ hoàng Victoria có một niềm đam mê vô cùng to lớn đối với loài chó Pug và bà đã lan truyền nó đến các thành viên khác trong Hoàng tộc.
Pug là một giống chó rất thân thiện và hiền lành. Nó giữ vững sự phổ biến cho đến thế kỷ thứ XXI, với nhiều người nổi tiếng sở hữu giống chó này. Một chú chó Pug đã đoạt giải Nhất sự kiện World Dog Show năm 2004.
Nguồn gốc
Có nguồn gốc từ châu Á khoảng 400 trước Công nguyên. Tuy vậy hiện nay nguồn gốc của Pug vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Một số chuyên gia cho rằng Pug có nguồn gốc từ vùng Viễn Đông, được du nhập bởi các nhà lái buôn Hà Lan. Họ cũng cho rằng có thể đây là một nhánh của giống chó Bắc Kinh lông ngắn. Tuy vậy có ý kiến khác cho rằng Pug là kết quả của việc lai tạo giống chó Bulldog bé.
Từ thế kỷ XVI, Pug trở thành loài chó cảnh yêu thích và thời thượng nhất trong các triều đình châu Âu, đạt đến đỉnh cao vào thời kỳ Victoria. Pug là loài chó yêu thích trong các đền chùa tại Tây Tạng, sau đó chúng được nhập vào Nhật Bản. Tiếp tục cuộc chu du đến châu Âu, loài chó này nhanh chóng trở thành vật nuôi trong hoàng gia của nhiều quốc gia và thậm chí đã trở thành loại chó chính thức của Hoàng gia Hà Lan. Chính chú chó Pug nhỏ bé đã cứu mạng hoàng tử William khi đánh động cho chủ biết về cuộc tấn công vào năm 1572. Khi người Anh xâm chiếm hoàng cung tại Bắc Kinh, họ tìm thấy ở đây một số chó Pug và chó Bắc Kinh và mang chúng trở về Anh quốc. Liên đoàn chó Mỹ đã chính thức công nhận loại chó Pug vào năm 1885.
Đặc điểm
Chó Pug có thân hình chắc lẳn, gọn gàng Cơ thể của loài chó này được coi là cân đối nếu chiều cao tính đến vai gần tương đương với chiều dài từ vai đến hết mông. Chó chuẩn có hình dáng giống quả lê, phần vai rông hơn phần hông. Bộ lông ngắn, mềm mại, dễ chải có màu nâu, trắng, vện và trộn lẫn giữa chúng. Da chúng mềm mại, tạo cảm giác dễ chịu khi vuốt ve. Chúng có đôi mắt tròn lồi màu sẫm và hàm dưới hơi trề ra rất ngộ. Đuôi thẳng hoặc xoắn.Pugs có đôi mắt to và khuôn mặt nhăn nheo với một cái lưỡi dài. Chăm sóc thích hợp của các nếp nhăn là quan trọng nhất.
Điều kiện sống
Rất thích hợp cho các căn hộ có diện tích vừa phải. Tuy vậy lý tưởng nhất đối với Pug khi có không gian để chạy nhảy. Thích nghi kém với thời tiết nóng và lạnh, vì vậy lúc đó tốt nhất là nên giữ chúng ở trong nhà, nơi có nhiệt độ thích hợp.
Sức khỏe và chăm sóc
Do Pug có một cái mũi ngắn và thiếu phần xương trên mắt nên chúng rất dễ bị tổn thương mắt, gặp các vấn đề về mắt như lồi mắt, xước giác mạc, quặp mí. Đường thở của chúng cũng rất hẹp, gây khó thở hoặc không điều hòa được thân nhiệt thông qua sự bay hơi ở lưỡi. Thân nhiệt bình thường của Pug rơi vào khoảng từ 101 °F (38 °C) đến 102 °F (39 °C). Nếu thân nhiệt của nó vượt quá 105 °F (41 °C), nhu cầu oxy sẽ tăng cao và cần phải hạ thân nhiệt ngay lập tức. Nếu thân nhiệt chạm ngưỡng 108 °F (42 °C) sẽ xảy ra tổn thương nội tạng. Tình trạng thở khó khăn của Pug có thể tiến triển nặng hơn nếu nó bị stress khi được vận chuyển bằng đường hàng không, vì nó bị giữ trong không gian chật và nhiệt độ cao. Do gây ra cái chết của nhiều chú chó Pug và các loài sọ ngắn khác, nhiều hãng hàng không đã cấm vận chuyển hàng và ban hành luật hạn chế theo mùa.
Những con chó Pug không vận động nhiều sẽ dễ dẫn đến béo phì, cho dù có thể phòng tránh nhờ tập thể dục thường xuyên và chế độ ăn hợp lý. Vòng đời của Pug trung bình khoảng 11 năm, khá tương đồng với các giống chó khác cùng kích cỡ.
Pug có thể bị một loạt các vấn đề sức khỏe, bao gồm cả béo phì, quá nhiệt và một số rối loạn di truyền. Hai điều kiện trong viêm não màng não hoại tử đặc biệt, đó là tình trạng viêm ảnh hưởng đến não và màng của nó, và hemivertebrae, có thể dẫn đến tê liệt. Chăm sóc phải thực hiện làm sạch tai và nếp gấp da trên khuôn mặt của những chú chó này. Đòi hỏi rất ít cho việc chăm sóc bộ lông. Chỉ cần chải lông đều đặn là đủ. Chỉ tắm cho chúng khi cần thiết. Sau khi tắm xong, cần lau khô và sấy ấm cho chúng ngay để tránh bị cảm lạnh. Vệt nước mắt trên mặt có thể lau cho chúng thường xuyên. Pug là loại chó rụng lông theo mùa, tương đối nhiều nhưng cũng không quá lo vì lông của loài này ngắn và không xù. Loài Pug có thể sống từ 12 đến 15 năm.
Tên khác
Chinese pug
Dutch bulldog
Dutch mastiff
Mini mastiff
Mops
Carlin
Chó ngao Tây Tạng hay còn gọi là Ngao Tạng, tên tiếng Anh là Tibetan Mastiff, là một giống chó Ngao được người Tây Tạng nuôi và huấn luyện để bảo vệ gia súc và bảo vệ cuộc sống của những người dân bản địa trên vùng núi Himalaya khỏi những con thú hoang như chó sói, hổ, gấu và để canh gác các tu viện ở Tây Tạng. Chúng có tính cách như trung thành, lỳ lợm, đặc biệt chỉ nghe lời một chủ. Chó ngao Tây Tạng được cho là Chúa tể của thảo nguyên và được mô tả là To hơn chó sói, mạnh hơn báo hoa và nhanh hơn hươu nai. Có khả năng chó ngao Tây Tạng là tổ tiên của một số giống chó ngao ngày nay.
Phát hiện
Loài chó Tây Tạng được tình cờ phát hiện bởi hai nhà thám hiểm người Ý tại ngôi làng Jhangihe, toạ lạc ở độ cao rất lớn so với mực nước biển giữa khu tự trị Tây Tạng. Trong thế kỷ 15, sau khi thám hiểm vùng núi Himalaya, các nhà thám hiểm thường mang chó ngao Tây Tạng về nước như là món quà quý cho Hoàng gia. Năm 1820, vua Anh Quốc là George IV được tặng một con; 14 năm sau, vua William IV được tặng một cặp khác; tiếp đến năm 1847, một con chó ngao Tây Tạng cũng được gửi tặng cho Nữ hoàng Victoria của Anh….
Hình dáng
Chó ngao Tây Tạng có kích thước khá đồ sộ. Cao ít nhất 70 cm đối với chó đực. Nặng khoảng từ 64–90 kg. Lông: Với bộ lông 2 lớp, lớp lông ngoài mềm và dài còn lớp lông trong bông như len. nó có thể thích nghi với mọi thời tiết khắc nghiệt nhất. Chó ngao Tây Tạng có phần lông ở cổ đặc trưng trông như bờm sư tử. Màu: đen, đen -nâu, đen -vàng, xám hoặc vàng. Đuôi: luôn cuộn cao trên lưng. Đầu: phẳng, không có nếp nhăn. Hình thế cân đối và oai vệ. Tấn công lì lợm, trung thành, đặc biệt chỉ nghe chủ, chỉ trung thành tuyệt đối với 1 chủ nhân duy nhất. Chó ngao Tây Tạng cũng trưởng thành rất chậm. Con cái từ 3-4 năm mới bắt đầu chu kì sinh sản, còn con đực cũng từ 3-5 năm mới phát dục và có khả năng giao phối. Các nhà khoa học cho rằng đây chính là giống chó săn tinh khôn nhất hiện nay, từng bị giới động vật học hiện đại cho là đã tuyệt chủng. Loài chó này đã hiện hữu cách đây 5000 năm và được xem như là giống chó có bộ Gen cổ xưa nhất trên thế giới hiện nay.
Pit bull là một giống chó nhà có nguồn gốc từ châu Mỹ, được nuôi ở Anh và nuôi để làm vật giữ nhà và cũng được sử dụng trong những cuộc chọi chó. Chúng là giống chó được chọn giống từ loại chó bun Anh và chó sục. Đây là giống chó dữ, hiếu chiến, bền bỉ, gan lỳ được mệnh danh là sát thủ máu lạnh hay còn được gọi là chó chiến binh hay võ sĩ giác đấu. Thuật ngữ Pit bull bắt nguồn từ tên tiếng Anh gồm pit có nghĩa là cái hố lớn và bull có nghĩa là con bò mộng. Giống chó Pit bull đầu tiên được nuôi ở Anh vào thế kỷ thứ 18 dùng để đấu với các giống chó khác trong đấu trường hay trong một cái hố lớn để phục vụ cho những cuộc chiến máu me. Chúng còn được huấn luyện để đi săn.
Theo nghĩa rộng nhất, thuật ngữ “Pit Bull” có thể chỉ về một trong những giống bao gồm cả Chó sục Pit Bull Mỹ (American Pit Bull Terrier), Staffordshire Bull Terrier, American Staffordshire Terrier, hoặc bất kỳ những giống chó lai đó. Pit Bull được tạo ra với giống lai tạo giữa con chó ngao Anh và chó sục, nhưng mỗi nòi Pit Bull giống chó riêng biệt có một lịch sử phát triển riêng biệt.
Là giống chó nhập ngoại có nguồn gốc từ Mỹ, đặc tính rất hung dữ và hiếu chiến Dòng chó này có nguồn gốc từ châu Mỹ và đang dần được nuôi phổ biến ở Việt Nam. Được coi như hung thần của các loại chó chọi, với sức mạnh của cơ thể cộng với hàm răng sắc nhọn, khi đã xung trận Pitbull được ví như những chiến binh, chúng có thể cắn nhau đến hơi thở cuối cùng. Pitbull được xem là chúa tể của các loài chó chọi.
Trong một số giống chó chọi, Pitbull American được sử dụng trong các cuộc chọi chó nhiều hơn cả và trội về việc bảo vệ lãnh địa, bảo vệ chủ nhân. Có nguồn gốc từ Mỹ, có trọng lượng trung bình từ 30 – 40 kg, trông rất dũng mãnh và sẵn sàng tử chiến khi nhận được lệnh của chủ nhân. Loài vật này có thể đương đầu và hạ gục những con chó to hơn bản thân nhiều lần và không biết sợ hay chùn bước trước bất kì đối thủ nào. Ở Hoa Kỳ, chúng được coi là giống chó nguy hiểm nhất và được sử dụng trong chiến đấu.
Đặc điểm
Thể chất
Pit bull là một giống chó tầm trung bình và nhỏ, chúng cao từ 45 đến 55 cm, nặng từ 18 đến 22 kg và có sức mạnh cơ bắp hơn bất cứ giống chó nào khác. Nhìn chung, Pit Bull có ngoại hình khá dữ dằn, chúng có khung xương vững chãi, cơ bắp săn chắc, vai trước vạm vỡ, đặc biệt là đôi mắt đỏ ngầu dữ tợn dưới cái trán to gồ, giống chó này được biết đến với ngoại hình đầy cơ bắp và đặc biệt gây ấn tượng với vẻ ngoài hung dữ, hầm hố[2][10]. Vẻ ngoài cơ bắp và chiến đấu khiến Pitbull dễ bị ác cảm do đó nhiều đồn thổi về giống chó Pit bull một phần vì ngoại hình dữ dằn của loài chó này. Ở Việt Nam, nhiều người dân ở Hà Nội cũng rất thích nuôi loại chó này bất chấp nguy hiểm vì nhìn nó rất dữ tợn có thể trấn áp, uy hiếp được người khác vì chúng nhìn dữ dằn, hồng hộc lao đi như muốn nhảy chồm và dùng hàm răng xé tan bất cứ thứ gì.
Loài chó này còn có một cơ hàm khác biệt, có cấu tạo như khớp khóa, vì vậy khi nó đã cắn vật gì, hay đối thủ thì không dễ nhả ra. Vết thương do chó căn để lại sẽ rất sâu và rộng vì hàm răng của chúng rất dài, sắc nhọn, ở mức độ nhẹ có thể mang tật, nặng hơn có thể nguy hiểm đến tính mạng. Chó Pitt bull sở hữu lực cắn mạnh lên đến 250 pounds/1 inch vuông với bộ hàm khỏe và lực cắn mạnh, lực cắn của chúng có thể lên đến 106.5 kg. Chỉ cần một nhát cắn của một con pitbull bình thường cũng sẽ cướp đi sinh mạng của một con chó khác, ngay cả chó chăn cừu Đức cũng không đáng kể. Một con Pitbull bình thường có thể cắn vào một vật và đu mình 30 phút không biết mệt, điều này xuất phát từ điểm nổi trội của Pitbull là chúng có thể lực tốt và thần kinh tốt, thậm chí một số con có thể kéo cả chiếc ô tô 4 bánh giống như một lực sĩ hạng nặng.
Do Pitbull phải vận động mạnh nên chúng ăn rất nhiều đạm. Loại thịt mà loài chó này thích nhất là thịt bò, mỗi bữa ăn Pitbull có thể ăn đến cả cân thịt bò Trong việc huấn luyện chó chiến đấu, thực đơn ăn uống của Pitbull cũng được quan tâm đặc biệt, một số người cho món ăn thường xuyên của Pitbull là cổ gà,người ta cho Pitbull ăn theo khẩu phần 12 chiếc cổ gà mỗi ngày, chia làm hai bữa. Cứ luộc nguyên cổ gà rồi cho Pitbull ăn, vừa đủ chất lại vừa luyện được răng. Thỉnh thoảng cho Pitbull ăn thịt chó để chúng dữ tợn hơn và tăng cường sức chiến đấu.
Tính cách
Chó Pit bull bình thường rất thân thiện và hiền lành, trừ khi chúng bị đe dọa hoặc tấn công, ngoài ra Pit bull còn là loài chó rất trung thành, tình cảm với chủ. Tuy nhiên, điểm nổi bật của giống chó này chính là khả năng chiến đấu. Chúng chiến đấu rất hăng mỗi khi có đối thủ hoặc người lạ xâm nhập vào lãnh địa và sẵn sàng tấn công đối phương đến chết khi giao đấu Dòng chó Pitbull được xếp vào danh mục các giống chó nguy hiểm nhất đối với con người trong tổng số hơn 400 loài chó hiện nay trên thế giới, Pitbull được đứng đầu trong số những loài nguy hiểm nhất, sự nguy hiểm và ham mồi của giống chó này thể hiện ở chỗ khi đã ngoạm vật gì thì chỉ khi vật đó bị đứt lìa thì nó mới nhả ra và chuyển sang ngoạm chỗ khác thậm chí chúng day nghiến vật đó cho đến chết.
Khi bị Pit bull tấn công thì người ta sẽ thấy thương hại cho con chó đã dám tấn công Pitt bull, kể cả khi con chó đó to hơn gấp ba lần. Chúng ít khi bại trận trước những giống cho lớn hơn, hung dữ hơn, điểm nổi bật của chúng chính là sự bền bỉ không gì khuất phục được. Pitbull có thể đương đầu và hạ gục những con chó to hơn bản thân nó nhiều lần, ngay cả chó sói trong các trận đấu trực diện nó không biết sợ hay lùi bước trước bất kì đối thủ nào, khi đã lâm trận, loài chó này còn cuồng hơn cả chó điên, chó dại. Do tập tính lãnh thổ cao, do đó theo bản năng nó có thể tấn công những con chó, thú khác đến cùng thậm chí là những con thú lớn hơn nó nhiều lần. Là loài chó dường như không có cảm giác đau đớn, lỳ đòn, điều này khiến loài chó này sẵn sàng tấn công bất cứ ai.
Dòng chó Pitbull được xếp vào danh mục 11 giống chó nguy hiểm nhất đối với con người trong tổng số hơn 400 loài chó hiện nay trên thế giới. Thậm chí, theo bảng xếp hạng giống chó nguy hiểm thì loài Pitbull được đứng đầu trong số những loài nguy hiểm nhất. Loài chó này là bởi nó hội tụ đầy đủ nhất lợi thế chiến đấu của loài chó như một khung xương vững chắc, bộ hàm hộp không quá dài, một hệ cơ bắp mà không loại chó nào phát triển mạnh như nó, một hệ tuần hoàn với trái tim lớn và một chiến ý mãnh liệt, không biết sợ hay chùn bước trước bất kì đối thủ nào.
Huấn luyện
Người ta nuôi và huấn luyện chó bằng nhiều bài cho đến khi vật nuôi đạt độ trưởng thành và hung dữ, đủ để xung trận. Để trở thành một chiến binh, Pitbull phải trải qua những bài huấn luyện công phu. Trung thành là bản tính có sẵn của Pitbull nên việc huấn luyện chỉ nhằm mục đích để cho chúng khỏe mạnh, bền sức và đặc biệt là càng hung dữ càng tốt. Để Pitbull chiến đấu tốt phải cho chúng trở về bản năng gốc, cho nên người ta không đưa chúng vào các trường huấn luyện chó, Pitbull sẽ trở nên ngoan ngoãn và mất hẳn bản năng chiến đấu của chúng.
Mỗi con Pitbull sẽ được chủ huấn luyện theo một cách riêng, nhưng đa phần đều trải qua những bài tập rất chung như quấn xích vào cổ để chạy, có con phải đeo chiếc xích to bằng cổ tay, tương đương trọng lượng cơ thể và tuy chiếc xích có thể nặng đến 40 kg nhưng pitbull vẫn nhấc lên nhẹ nhàng. Người ta còn cho chúng chạy trên máy tập, kéo lò xo, kéo lốp xe, cắn thịt sống… Để có hàm cứng cáp, nướu dẻo như cao su, cơ bắp săn chắc, có người đã xây dựng một hệ thống bài tập tổng hợp cực kỳ nghiêm ngặt. Một đoạn dây cao su to được treo lên trần nhà, chó nhảy lên táp rồi treo lơ lửng, tiếp đến phải xé dừa khô, cắn cây chuối. Thậm chí, chó phải đeo lốp xe hơi lên cổ rồi chạy marathon, tập bơi, chạy bộ.
Khi đã áp dụng những bài tập đó cho Pitbull thì ngày nào cũng phải duy trì đầy đủ, bất chấp điều kiện thời tiết. Các bài tập khác đều có xích để giữ, riêng bài kéo lốp thì phải thả ra cho chúng chạy. lúc thì để chạy theo xe, khi lại cho bơi xuống hồ nước, lúc lại cắn xé chiếc lốp cao su, ngày nào cũng phải dành hàng giờ đồng hồ đi bơi cùng những bài tập dẻo dai khác để tăng cường sức khỏe cho chúng. Ngoài ra, để huấn luyện được một con chó chọi tốt, người chủ nuôi phải kích động thái độ hung dữ của vật nuôi bằng số động vật nhỏ như mèo để nó làm quen và trở lên ngày càng dữ tợn. Ngoài những bài tập thể lực, thỉnh thoảng chủ chó còn có một bài tập dã man, đó là thử chó. Trước mỗi trận đánh, chủ chó thường thử khả năng chiến đấu của Pitbull đồng thời kích thích thú tính của chúng bằng cách mua một con chó sắp bị thịt mang về thả ra cho Pitbull cắn. Thường thì những cuộc chiến không cân sức đó chỉ kéo dài chưa đến 5 phút là con vật hiến thân kia sẽ chết.
Giống chó Pitbull đã thu hút được sự quan tâm của những người đam mê chơi chó bởi ngoại hình khỏe mạnh, sự trung thành với chủ, dữ dằn trong chiến đấu và sự hung dữ, một số người chơi Pitbull đã đẩy chúng vào những trận chiến sinh tử, tàn khốc. Trên thế giới, tại một số nước Nam Á, Nga hay như Trung Quốc lâu nay cũng ưa chuộng trò chơi chọi chó. Tại các nước châu Mỹ, nguồn gốc của những chú chó Pitbull, nơi chúng sống với chủ như những người bạn, người vệ sĩ trung thành. Tuy nhiên, sau khi du nhập về các nước châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng, đa số Pitbull trở thành chiến binh cho những cuộc chiến và cá độ. Pitbull trở thành công cụ kiếm tiền cho những người chủ chó máu mê cờ bạc và việc chọi chó Pitbull rộ lên và có chiều hướng thành phong trào như một thú chơi hành động, mang tính bạo lực.
Một trận chọi chó thường kéo dài nhiều hiệp, mỗi hiệp khoảng 10 phút, chọi đến khi nào có một con thua do chấn thương hoặc chết mới dừng lại. Ngay việc kết thúc một trận chiến, nhiều chủ chó phải sử dụng một công cụ hỗ trợ gọi là banh hàm để tách được 2 đấu sĩ ra do đặc tính của Pitbull đã cắn là không nhả. Một Pitbull trưởng thành chỉ tham chiến mỗi tháng một trận do cần thời gian để phục hồi chấn thương. Chó Pitbull nặng khoảng 30–40 kg/con, rất hung dữ và hiếu chiến thường lao vào cắn xe nhau tàn bạo, thông thường, chó tham gia các cuộc đấu đã ở giai đoạn trưởng thành, nặng khoảng 30– 35 kg, và luôn trong trạng thái hung dữ, bị kích động.
Sau mỗi trận, dù thắng hay thua, chúng đều bị những chấn thương nhất định, nhẹ thì rách da, toác thịt… nặng thì gãy xương hoặc hơn nữa là bị cắn vào các động mạch. Các con chó đều mang đầy thương tích, con nhẹ thì gãy răng, đứt môi, tai, nặng thì có thể mất mạng. Những chú chó đã được huấn luyện để lao vào cắn xé nhau đến nát thịt, tan xương đang phục vụ cho thú chơi cờ bạc, cá độ của con người, sau một thời gian, các chú chó này lại tiếp tục lao vào trận chiến mới và lại một quá trình phục hồi. Sau khi chó đã trải qua các cuộc chọi, bản thân con chó đấy sẽ trở nên hung dữ rất nguy hiểm cho xã hội. Đã có rất nhiều trường hợp ở nước ngoài, chó tham gia chọi chó bất ngờ tấn công trẻ em hoặc cả người lớn. Tại Hoa Kỳ từ năm 2005-2012 bình quân mỗi năm có 19 người bị tử vong ở Mỹ do bị loại chó Pitbull tấn công.
Doberman là tên của một giống chó có thể nuôi để giữ nhà, canh gác hoặc làm nghiệp vụ. Tên gọi đầy đủ và chính xác của nó là Dobermann Pinscher (theo AKC American Kennel Club). Dobermann là một trong số ít những loại chó được đặt theo tên người (Louis Dobermann). Đây là một giống chó hung dữ, nhưng nếu được đào tạo tốt, nó có thể là những con chó tuyệt vời của gia đình. Với cách tiếp cận phù hợp, chúng có thể dễ dàng đào tạo và sẽ học hỏi rất nhanh. Giống như tất cả các con chó, nếu được đào tạo đúng cách, chúng có thể phù hợp với trẻ em.
Lịch sử
Louis Dobermann (1834-1894), sống ở vùng Apolda, nước Đức, được coi là người đã sáng tạo ra giống chó này, nhưng thực ra, một người bạn của ông, Otto Goeller mới là người đặt tên cho giống này. Goeller đã theo dõi một cách hào hứng những công việc lai tạo giống do Dobermann tiến hành trong một thời gian dài. Sau đó chính Goeller là người đã tiến hành công việc chọn lọc nâng cao chất lượng cho giống chó, bằng cách cho lai tạo từ rất nhiều con chó giống khác nhau mà Louis Dobermann đang có (bao gồm cả chó lai, chó terrier, và các giống chó chăn gia súc), để tạo ra giống chó mà ngày nay chúng ta biết đến với tên gọi Doberman Pinscher.
Louis Dobermann và Otto Goeller không ghi chép lại cách thức, tỷ lệ mà họ áp dụng khi gây giống chó mới, vì thế, không ai biết đích xác Doberman đã được tạo ra như thế nào. Nhưng hiện nay nhiều chuyên gia cùng đồng ý rằng Doberman Pinscher là hậu duệ của các giống chó sau: Rottweiler, German Pinscher, Manchester Terriers, German Short Haired Pointer, và thậm chí cả Great Dane hoặc GSD cũng có thể đóng góp một phần nào đó trong việc tạo ra Doberman.
Ở Việt Nam, thú nuôi chó Doberman hiện nay đã bắt đầu trở nên phổ biến. Nhiều người yêu thích dòng chó này đã tìm cách nhập về, bổ sung cho nguồn gen giống hạn chế trước đây. Hiện nay phần lớn những con doberman đẹp, có vóc dáng và thần thái tốt được nhập khẩu về có giấy chứng nhận thuần chủng đầy đủ, nguồn gốc xuất thân chủ yếu từ các trại chó danh tiếng trên thế giới. Khi Doberman bắt đầu thu hút thì một số lái buôn tập trung nhiều vào dòng Doberman, mua con cái cho sinh sản hay nhập khẩu con cái mang thai từ ngoại quốc nhằm mục đích kinh doanh. Do còn thiếu nhiều kinh nghiệm nên nhiều lái chó đã thất bại. Con giống doberman ở Việt Nam giá vẫn rất cao do số lượng người chơi đông nhưng số lượng con giống còn hạn chế.
Bề ngoài
Một con Dobermann cái có thể cao 65–70 cm và nặng khoảng từ 32 đến 35 kg, trong khi con đực thì vào khoảng 68-72 cm và nặng 40-45kg. Thông thường Dobermann có bộ ngực to khỏe, cơ thể săn chắc vạm vỡ. Nhưng theo xu hướng hiện nay thì người ta ưa chuộng Dobermann gầy và thon thả hơn. Tuy vậy, những con Dobermann to khỏe vẫn được một số người thích chọn.
Màu sắc
Khi nhắc đến Dobermann, đa số mọi người nghĩ đến một con Dobermann màu đen với các viền nâu vàng. Thực tế, Dobermann có 2 gene màu khác nhau (giả sử gene A và B) tương tác để có thể tạo ra bốn loại kiểu hình về màu sắc khác nhau. Con Dobermann với màu truyền thống đen hoặc đen và vàng là do chúng mang allele trội của cả hai gene (A – B –). Một loại biến chủng thường thấy ở Dobermann có bộ lông màu đỏ hay đỏ và vàng là do chúng đồng hợp lặn về 1 gene (vd. A – bb). Đó là cách gọi ở Mỹ còn ở các nơi khác, những con Dobermann như vậy được gọi là màu nâu vì bộ lông phủ toàn màu nâu đỏ sẫm với những viền vàng. Tuy nhiên, đối với những con Dobermann đồng hợp lặn ở gene màu kia (aa B-) thì có màu lông xanh xám. Một con Dobermann có tổ hợp gene đồng hợp lặn ở cả hai gene (aa bb), rất hiếm gặp trong tự nhiên, thì có màu vàng sáng và được gọi với cái tên là “isabella“.
Trong thập niên 1970, một con Dobermann có màu thứ năm, một màu trắng hoàn toàn đã được sinh ra và từ đó di truyền màu lông này cho các thế hệ con cháu của nó. Quá trình nội phối nghiêm ngặt này diễn ra trong một vài thế hệ, theo phương thức mà các nhà chọn giống gọi là “cố định” đột biến, sau đó đã được tung ra thị trường. Những con Dobermann có màu lông như vậy đã mang một đột biến di truyền mới, tác nhân ngăn cản quá trình tổng hợp sắc tố, bất kể nó mang kiểu gene gì trong 2 gene màu nói trên (gene A và B). Thực ra, đó là những con chó mắc bệnh bạch tạng.
Mặc dù nhiều chủ nhân của những con chó Dobermann trắng thì thấy màu lông trắng khá đẹp, nhưng cũng như các con vật bị bệnh bạch tạng khác, chúng mang nguy cơ tiềm ẩn mắc bệnh ung thư và một số bệnh khác. Những con bạch tạng này cần tránh tối đa tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Vì nguy cơ mắc bệnh và chết sớm của những con Dobermann trắng này hầu như là chắc chắn nên ngày càng có nhiều người kêu gọi ngừng ngay việc chọn giống và thương mại những con bệnh bạch tạng, đó là một hành vi đối xử độc ác của con người đối với vật nuôi. Một vài quốc gia đã ban hành luật cấm việc chọn giống nhằm mục đích tạo ra những con Dobermann trắng, nhưng cho phép những nhà chọn giống có thể nuôi dưỡng những con Dobermann này nếu không để việc nội phối tạo ra các thế hệ bạch tạng tiếp theo.
Đuôi
Nhìều người ngạc nhiên khi thấy những con Dobermann với đuôi rất ngắn. Thực tế đuôi của Dobermann thường dài hơn những giống chó khác. Nhưng thông thường, đuôi của Dobermann được cắt vài ngày sau khi được sinh ra. Lý do của việc này là Dobermann với đuôi ngắn (gần như cụt) là một điển hình về Doberman, đặc điểm này gắn liền với Doberman, do người tạo ra giống chó này là ông Louis Dobermann đã mường tượng ra chúng như vậy. Đặc điểm này còn làm cho Dobermann trông ngầu và dữ dằn hơn.
Lý do khác là vấn đề công việc khi Dobermann làm nhiệm vụ của chó cảnh sát là bắt cướp. Kể tấn công có thể dễ dàng nắm đuôi Dobermann và điều đó trở thành một điểm yếu. Còn lý do khác nữa là đuôi Dobermann dễ bị gãy nếu để bình thường, một khi đã gãy thì rất khó chữa và sẽ gây đau đớn cho Doberman. Tuy vậy, vẫn có một số ít người muốn Dobermann với cái đuôi nguyên vẹn. Thường thì họ phải đặt vấn đề này với người bán sớm vì chuyện cắt đuôi Dobermann phải được tiến hành sớm sau khi vừa sinh ra.
Tai
Chuyện Dobermann cần phải được cắt tai để có một đôi tai dựng đứng trong khoảng 7 đến 9 tuần đầu từ lúc mới sinh là không chính xác, chuyện này có thể để đến 6 tháng hoặc 1 năm cũng được. Nhiều người tỏ ra không thích chuyện cắt tai Dobermann vì họ nghĩ rằng điều đó làm Dobermann rất đau đớn. Từ trước đến nay vẫn chưa ai đem Dobermann được cắt tai và Dobermann để tai tự nhiên ra so sánh, nhưng người ta vẫn tin rằng Dobermann được cắt tai có thể tránh được những vấn đề về tai như nhiễm trùng cao hơn.
Tính cách
Được lai tạo hàng thế kỷ để trở thành loài chó canh gác, Doberman có được các phẩm chất lý tưởng cho công việc này: Nhậy cảm, nhiệt huyết, có sức mạnh và sự bền bỉ phi thường. Hơn thế nữa, đây là một trong những giống chó vô cùng thông minh và dễ dạy bảo. Quyết đoán, không hề biết sợ hãi nhưng không hoang dã, trung thành, tận tuỵ và tình cảm với gia đình chủ, chó Doberman gần như trở thành một thành viên chính thức của gia đình.Vì Doberman rất thông minh, dễ dạy bảo, có khả năng tấn công, bảo vệ rất tốt nên trong thực tế chúng thường được huấn luyện để phục vụ nhiều mục đích khác nhau (trong đó có cả mục đích xấu).
Phim ảnh đã từng có thời dựng rất nhiều về Doberman như Doberman Gang (1972), Daring Dobermans(1973), The Amazing Dobermans(1976), Eyes of an Angel(1991)….,trong các bộ phim này đôi lúc Doberman xuất hiện với hình ảnh dữ dằn (Doberman Gang) nên nhiều người không hiểu biết về giống này nghĩ rằng giống này hung dữ nhưng thực ra Dobermann rất đáng yêu và thông minh (xem phim Eyes of an Angel), chúng rất hiếm khi tự ý tấn công con người, trừ trường hợp nó cảm thấy có điều gì nguy hiểm đang xảy ra với chủ hoặc gia đình nó hoặc khi nó được huấn luyện và ra lệnh tấn công con người. Trong các cuộc thi về vâng lời, Doberman luôn được đánh giá là giống chó thông minh và vâng lời bậc nhất.
Thể chất
Dobermann là giống chó có sức khỏe rất tốt, ít bệnh tật, tuổi thọ trung bình 11-13 năm. Tuy nhiên khả năng chống chịu thời tiết khắc nghiệt của chúng không được tốt lắm. Ở xứ lạnh vào những hôm nhiệt độ ngoài trời quá thấp có băng tuyết thì không nên để Dobermann ở ngoài trời (vì lông của chúng ngắn, chịu lạnh không tốt bằng nhưng giống lông xù).
Loại chó nguy hiểm
Dobermann bị xếp vào loại chó nguy hiểm tại tiểu bang Brandenburg ở Đức.
Bên Thụy Sĩ, 8 trong 12 bang cũng liệt Dobermann vào loại chó nguy hiểm, và phải xin giấy phép nếu muốn nuôi loại chó này. Ở bang Wallis họ cấm cả việc nuôi, gây giống và nhập cảnh vào.
Chó Husky (chó tuyết kéo xe) có xuất xứ từ Siberia – Nga, rất giống chó sói. Được con người lai tạo lần đầu tiên để kéo xe tuyết chở hàng hóa khắp Siberia. Thân hình những chú chó Husky cân đối, dáng vẻ dũng mãnh và đặc biệt cực kỳ dẻo dai. Bộ lông của chúng rất dày có 2 lớp giúp giữ ấm cơ thể rất tốt, nhưng cũng chính lớp lông này khiến chúng khó thích nghi khi được nuôi trong thời tiết nắng nóng.
Ngày nay, chó Husky gần như không dùng để kéo xe mà thường được nuôi làm thú cưng trong nhà. Với bộ lông đẹp, khuôn mặt ngộ nghĩnh, dáng vẻ thần tuấn nên tại Việt Nam giá của một chú chó Husky có giá khoảng từ 6-10 triệu.
2. Chó Samoyed – Chó tuyết kéo xe và chó săn
Chó Samoyed có xuất xứ từ vùng núi Taiga, Tây Bắc Siberia – Nga. Cũng giống như Husky chúng cũng có cơ thể mạnh mẽ, dẻo dai, lớp lông dày có thể kéo xe tuyết trong thời gian dài. Chó Samoyed có địa vị rất cao trong xã hội người Samoyede giúp họ vận chuyển lương thực, săn bắt thú rừng và bảo vệ khỏi kẻ thù.
Tại Việt Nam, một chú chó Samoyed đã được nuôi dưỡng có thể thích nghi với khí hậu nhiệt đới có giá từ 8-10 triệu.
3. Chó Alaska (Alaska Malamute)
Chó Alaska cũng là một giống chó xứ lạnh giống Husky và Samoyed được thuần hóa bởi bộ tộc Mahlemute. Khi mới bắt đầu thuần hóa, chó Alaska cũng chỉ có kích thước ngang với Husky nhưng được người Eskimo lai tạo để có được những chú chó Alaska to khỏe, dẻo dai và chịu được thời tiết khắc nghiệt hơn.
Với bộ lông đẹp của chó xứ lạnh, chó Alaska đã nhanh chóng được công nhận là 1 trong 10 giống chó đẹp nhất thế giới.
Ở Việt Nam, một chú chó Alaska thuần chủng có giá từ 8-10 triệu.
4. Chó Becgie – Chó chăn cừu
Chó Becgie được người Đức lai tạo lần đầu năm 1899, chủ yếu dùng để chăn cừu. Nhưng với sự thông minh vượt bậc, trung thành, nhanh nhẹn chúng nhanh chóng được huấn luyện để phục vụ trong ngành cảnh sát và quân đội. Theo thống kê, chó Becgie là giống chó phục vụ nhiều nhất trong lực lượng cảnh sát tại các nước trên thế giới.
Tại Việt Nam, chó Becgie cũng được sử dụng rất nhiều trong hoạt động phòng chống tội phạm. Chúng tương đối phổ biến nên chỉ có giá từ 4-7 triệu.
5. Chó Golden (Golden Retriever)
Đây là giống cho có nguồn gốc từ nước Anh, được lai tạo qua nhiều giống chó khác nhau. Nhưng chúng vẫn có bản năng săn mồi rất mạnh, khả năng đánh hơi tìm dấu vết hoàn hảo nên chúng cũng được cảnh sát các nước huấn luyện để dò tìm ma túy và các chất nổ.
Khi sống lâu với con người, chúng trở nên rất hiền lành, thân thiện có đôi chút nghịch ngợm nhưng đặc biệt trung thành. Nên ở Việt Nam chúng được nuôi khá phổ biến và thường có giá từ 4-7 triệu/con.
6. Chó săn Poodle
Poodle là giống chó có xuất xứ từ Pháp, có khả năng bơi lội rất giỏi nên từ xưa chúng thường được người dân bản xứ dùng để săn vịt trời. Đặc điểm của chúng là có bộ lông xoăn tít, giữ ấm rất tốt.
Ngày nay chó Poodle có rất nhiều kích thước khác nhau, nhưng với những chú chó Poodle mini được yêu thích hơn cả. Giá của chúng thì cũng dao động rất lớn từ 4-10 triệu/con.
7. Chó Labrador
Labrador là giống chó được coi là phổ biến nhất tại Mỹ, thường được các dân nuôi chó chuyên nghiệp huấn luyện để tha mồi trong các cuộc đi săn. Chó Labrador rất thông minh, có thể giúp con người làm được rất nhiều việc nên chúng thường được coi là một thành viên trong gia đình.
Tại Việt Nam giá của mỗi chú chó Labrador thuần chủng chó giá từ 3-5 triệu/con. Còn chó Labrador gốc Thái bán với giá từ 6-8 triệu.
8. Chó Doberman
Chó Dorberman được nhà lai tạo người Đức Louis Dorberman nhân giống thành công năm 1890 bởi ít nhất 4 giống chó. Tỉ lệ kết hợp giữa 4 giống chó với nhau gần như đã bị thất lạc.
Chó Dorberman rất dũng mãnh, cơ bắp, cổ cao, ta dụng chân dài và nhanh nhẹn. Một chú Dorberman trưởng thành nặng từ 30-45kg tùy theo giới tính đực hay cái. Bản tính Dorberman khá hung giữ, rất cảnh giác với người lạ nhưng trung thành với chủ nên thường được các gia đình nuôi làm chó giữ nhà.
Chó Dorberman mới phổ biến trong một vài năm gần đây nên có giá khá đắt, thường trên 10 triệu/con.
9. Chó Pitbull
Chó Pitbull có nguồn gốc từ Anh, ban đầu có kích thước khá nhỏ bé, nhưng để phục vụ một thể thao “chọi chó” nhiều người tại Mỹ đã lai tạo chúng trở nên to lớn và hung dữ hơn. Và cái tên Pitbull cũng được bắt nguồn từ môn thể thao này. Vào đầu thế kỷ 20 do luật cấm những trò giải trí như “chọi chó” ra đời nên Pitbull được lai tạo cho trở nên hiền lành và dùng để nuôi trong nhà.
Pitbull có một cái đầu to, cơ bắp săn chắc, trông khá hung dữ nên nhiều người rất sợ giống chó này. Nhưng thực tế chó Pitbull còn hiền hơn cả chó Dorberman và chúng chỉ trở nên hung dữ khi bị khiêu khích.
Chó Pitbull rất được giới trẻ trên thế giới yêu thích bởi sự mạnh mẽ của chúng. Một chú chó Pitbull hiện nay tại Việt Nam có giá từ 10-20 triệu/con.
Chó tha mồi Labrador thường được gọi với tên thân thuộc là Lab là một giống chó săn phổ biến ở Mỹ chúng thuộc nhóm chó săn mồi (gundog) và thường dùng để tha các con mồi về cho chủ trong các cuộc săn. Tên gọi Labrador có xuất xứ từ chữ “labrador” trong ngôn ngữ Bồ Đào Nha, có nghĩa là người lao động. Trong quá khứ, chó Labrador là giống chó được các thủy thủ, ngư dân Newfoundland và Bồ Đào Nha ưa chuộng nhất.
Chúng hiền lành, dễ gần và thích ở gần con người, loài chó săn mồi được coi là một trong những loài chó phổ biến nhất ở Mỹ trong những năm qua. Chó Labrador săn mồi rất năng động, đáng tin cậy, đáng yêu, dễ huấn luyện, nhiều người Mỹ coi chú chó này là một thành viên trong gia đình. Ở Nga chúng còn được gọi là “Labriki”, “Laby”, hay “Labukh”.
Tổng quan
Tổ tiên của chúng là giống chó Newfoundland ở Canada. công việc thường ngày của chúng là giúp những ngư dân kéo lưới bắt cá. Labrador được huấn luyện để nhảy từ trên tàu xuống nước đầy băng tuyết và kéo lưới vây lại giúp những ngư dân bắt cá dễ dàng hơn. Chúng được các thuyền Anh mang về nước vào những năm 1800, và chính ở nước Anh, bản năng tìm kiếm của chúng được phát triển hơn. Chúng cũng trở thành những chú chó gia đình và để bầu bạn bởi bản tính dịu dàng, tình cảm và rất dễ huấn luyện.
Chúng cũng chứng tỏ khả năng trong việc phát hiện thuốc nổ, dắt người mù và giúp việc cho những người tàn tật. Trung thực, điềm tĩnh, thông minh, khi chơi với trẻ nhỏ gây được sự yên tâm cho con người, luôn luôn tự thỏa mãn hài lòng, thích hợp cuộc sống vùng ngoại ô.
Chó săn Labrador có khứu giác đặc biệt tốt, nên trong cả hai thế chiến giống chó này được dùng để truy tìm địa lôi, hiện nay được dùng để đánh hơi tìm các loại độc dược phạm pháp. Về cơ bản Labrador được nuôi trong nhà do đó nên chuẩn bị tốt lồng hoặc phạm vi tương đối rộng cho chúng, bởi giống chó này lớn rất nhanh. Giống chó Labrador chiếm gần tám mươi phần trăm số chó dẫn đường trên toàn thế giới.
Với phương diện là chó săn, chó Labrador là phụ tá vô cùng đắc lực cho thợ săn: hoạt động không mệt mỏi, đánh hơi theo dấu tài tình, hiểu và thực hiện các mệnh lệnh một cách nhanh chóng, tóm tại thuộc hàng xuất sắc trong các nòi chó săn. Chó Labrador có thể tìm kiếm chính xác không bao giờ sai vị trí con mồi bị bắn chết hoặc bị bắn rơi, cả ở trên cạn lẫn dưới nước. Chúng còn có trực cảm tốt, sức chịu đựng dẻo dai, bền bỉ, đặc biệt là khả năng đánh hơi theo dấu máu con mồi dù đã khô sau mấy ngày.
Chó săn thuộc giống Labrador không bao giờ tỏ ra hoảng hốt, giận dữ khi chẳng may bị mất liên lạc với chủ, vẫn miệt mài thực hiện công việc của mình, theo mệnh lệnh mà chủ đã ban ra trước đó. Khi tha con mồi về cho chủ, chó Labrador ngậm nhẹ nhàng đến mức không thể nhận thấy dấu răng trên thân thể con mồi, trong khi đó, với những con chó săn thuộc giống khác, khi con mồi được đưa về cho chủ thì bị giập nát. Chó Labrador tham gia công việc săn bắn không phải do có bản năng hung hãn tự nhiên, mà do ý thức phục tùng người chủ của mình.
Lịch sử
Bắt nguồn từ những con to lớn có tên là Greater Newfoundland, tổ tiên của giống chó Newfoundland hiện tại của Canada, giống nhỏ hơn có tên là Lesser Newfoundland hay St. John’s Dog, giống chó này là tổ tiên của Labrador Retriever và 3 giống chó Retiever khác trên thế giới: Flat-Coated Retriever, Chesapeake Bay Retriever và Golden Retriever, nhưng Labrador Retriever được coi là ít bị lai nhất, vẫn giữ rất nhiều đặc tính của St. John’s Dog. Nguồn gốc của John’s Dog chưa có tài liệu nào ghi lại rõ ràng, vào thế kỷ 15 ở Newfoundland vẫn còn là một vùng hoang sơ, không có chính phủ, chỉ có thổ dân và các tàu đánh cá từ châu Âu tới để đánh bắt loại cá tuyết King Cod rất ngon và có rất nhiều ở vùng biển này, họ đánh bắt cá rồi muối phơi khô để chở về châu Âu.
Những ngư phủ đến từ châu Âu đã đem theo những giống chó trên tàu, và khi họ định cư ở Newfoundland các giống chó này lai với nhau và được chọn lọc theo quy luật tự nhiên để phù hợp với khí hậu và công việc nên tạo ra giống chó Lab, cá thể nào yếu, không phù hợp với khí hậu và chế độ làm việc sẽ chết, việc đánh bắt cá trên tàu hay dưới biển đòi hỏi con chó phải có sức khỏe rất tốt và chịu lạnh giỏi, vì nước biển ở vùng này rất lạnh. Và những giống chó này có thể là những giống chó của Anh và Bồ Đào Nha.
Chúng từng tham gia kéo lưới cá với thổ dân Bắc Mỹ. Mùa đông, nước biển Đại Tây Dương lạnh nhưng chúng có bộ lông dày và lớp lông mao bên dưới không thấm nước nên giữ được thân nhiệt rất tốt. Không chỉ phụ kéo lưới trên thuyền, chúng sẵn sàng lao xuống nước để lùa cá vào lưới và gỡ lưới. Sau mỗi chuyến đánh bắt trở về bờ, chó Labrador còn phụ giúp các ngư phủ kéo cá về nhà.
Có những ý kiến cho rằng những con chó đến từ châu Âu đã lai với giống chó của thổ dân một cách tự nhiên rồi tạo ra giống Labrador. Trước khi người da trắng đến Newfoundland đã có thổ dân da đỏ Beothuks sống ở đó, người ta còn tìm thấy ngôi mộ cổ của thổ dân có chôn theo hai con chó nặng khoảng 45-55 pounds. Họ nuôi để làm bạn với con người và dùng để đi săn, đó là chó của những người thổ dân, và những người châu Âu nhìn lầm nó là những con chó sói. Những con chó của thổ dân được đánh dấu rất nhiều trên tai giống như người ta làm dấu với cừu ở bên Anh.
Sau đó người da trắng châu Âu đã săn lùng và tiêu diệt thổ dân ở Newfoundland, và giống chó của thổ dân Beothuks cũng thoe số phận của những người chủ của nó bị tuyệt chủng. Nếu Lab là giống chó có sẵn ở Newfoundland của thổ dân, thì không hợp lý vì giống chó của thổ dân có cấu trúc gần giống với giống chó Nordic Spitz cổ xưa. Vào thời điểm đó các con chó St. John’s Dog đều chỉ có màu đen và có đốm trắng hai bên má, trước ngực và ở bốn chân, lông ngắn và không thấm nước, lông ngắn để bơi lội ở vùng khí hậu lạnh, khi lên bờ nước bám trên lông không bị đông đá, đây cũng là điểm khác biệt với chó Newfoundland kéo cá ở tren bờ có bộ lông dài.
Vào đầu những năm 1800 người Anh và người Scotland đã du nhập những con St. John’s Dog đầu tiên về nước, và họ phát hiện những con chó này rất giỏi việc tha mồi trong săn bắn, nhất là săn vịt trời hay những con thú ở những vùng ngập nước và họ gọi những con St. John’s Dog này là Labrador Retriever, gọi theo tên vùng biển Labrador ở Canada nơi mà nó xuất xứ, để phân biệt với những con Newfoundland.
Một bá tước người Anh và bá tước người Scotland cũng đã mang những con chó St. John’s Dog về để săn bắn. Sau khi họ chết, con trai của họ đã chính thức nhập về rất nhiều Labrador từ Canada để nhân giống và mở trại chó Labrador đầu tiên ở Anh và Scotland, họ nói rằng họ cố giữ giống chó này thuần chủng như những con St. John’s Dog ở Canada.
Vào thời đó trò chơi săn bắn rất thịnh hành ở châu Âu, nhưng chưa có các hiệp hội công nhận chó thuần chủng và người ta sẵn sàng nhân giống bất cứ con gì có tài săn bắn để hoàn thành nhiệm vụ tốt mà không cần chú ý tới vấn đề thuần chủng nhiều. khiến giống chó St. John’s Dodần dần đi tới tuyệt chủng. Năm 1870, Chính quyền Newfoundland đã ra đời, cho phép mỗi gia đình chỉ được nuôi một con chó vì lúc đó Newfoundland đang phát triển ngành chăn cừu, luật đó để bảo vệ những đàn cừu không bị chó tấn công, và St. John’s Dog đã hiếm dần, đến năm 1930 thì rất hiếm ở Newfoundland.
Năm 1895 ở Anh, ra luật rất khắt khe đối với những con chó nhập vào nước Anh để tránh lây bệnh dịch từ các nước khác, người nhập chó phải có giấy phép, phải đóng thuế rất cao và chó phải bị giữ lại 6 tháng để kiểm tra trước khi cho về nhà với chủ. Chính vì điều này, lại cộng thêm sự khan hiếm giống chó St. John’s dog ở Canada, vì vậy Labrador ở Anh đã phải nhân giống với những giống chó khác để có được giống chó Labrador ngày nay, nhiều khả năng nó được lai với Setter, Spaniels và những giống Retriever khác, vì vậy Lab ngày nay nhìn gần giống với St. John’s dog, nhưng không có đốm trắng ở hai bên mõm và ở chân, chỉ còn đốm trắng ở ngực, và tiêu chuẩn của Lab cũng không chấp nhận đốm trắng ở bất cứ đâu ngoại trừ ở ngực. Ngày nay khi nhân giống những con Lab thuần chủng với nhau thì rất hiếm khi bị có đốm trắng ở mõm, nhưng nếu lai Lab với những giống chó khác thì lại rất thường gặp điều này.
Đặc điểm
Có hai giống Labrador được biết đến đó là Labrador Anh và Labrador Mỹ. Labrador Anh có nguồn gốc từ nước Anh, và nhìn chung thì có những sự khác biệt giữa các giống này. Labrador Anh có thân hình chắc chắn, người dầy và vuông vức hơn trong khi Labrador nguồn gốc từ Mỹ lại có thân hình cao và thon hơn.
Nhìn chung, Labrador là giống chó rắn chắc và khỏe, thân hình khá dài. Kích thước chiều cao trung bình của con đực từ 56–61 cm, con cái từ 53–58 cm. Cân nặng con đực từ 27–34 kg, con cái từ 25–32 kg. Labrador có đầu rộng, mũi dày và hàm sắc bén, mõm của chúng khá rộng, lực cắn của chúng có thể lên đến khoảng 56,6 kg. Cổ rất mạnh mẽ, cặp mắt màu hạt dẻ hoặc nâu đỏ. Cấu trúc xương ở các chi chắc chắn, giữa các ngón chân có màng giúp chúng bơi lội dễ dàng. Tuổi đời chủa chúng khoảng 10 – 12 năm. Giống Lab rất mạnh khỏe, không có bệnh gì đặc trưng thường gặp ở giống chó này, nhưng cũng giống như tất cả các giống chó khác Lab thỉnh thoảng cũng bị hip dysplasia (hở xương hông), elbow dysplasia (hở xương cùi chỏ), Gastric torsion (bloat) – bệnh đầy hơi, xoắn bao tử.
Chúng có bộ lông ngắn, cứng, dễ chăm sóc. Lông của chúng gần như thẳng, không một gợn sóng, các màu phổ biến là đen, vàng và sôcôla. Labrador thường có nhiều màu biến đổi từ vàng nhạt đến nâu đậm, thậm chí có màu đen nhưng khá hiếm. Trên thực tế còn tồn tại hai màu khá hiếm gặp là màu bạc và màu xám một số người cho rằng màu bạc và xám là kết quả của sự lai tạp, những người khác lại cho rằng đó đích thị chỉ là sự đột biến. Thời gian chúng thay lông, trong nhà đầy lông chó. Chúng có bộ lông không dài và có một lớp lông mao rất rậm bên dưới hoàn toàn không thấm nước. Lông của chúng hoàn toàn không có mùi hôi và khả năng gây dị ứng vô cùng thấp. Bộ lông của chúng đôi khi còn được gọi là “chất chống dính”, vào mùa xuân tuyết tan hay mùa thu mưa dầm, đường sá, sân vườn lầy lội, chúng có bị lấm bẩn đến mấy thì khi lông khô, mọi thứ chất bẩn bám trên mình đều tự rơi xuống hết. Chúng không sợ băng giá và rất ít khi bị đau ốm, có thể đi dạo ngoài trời khi nhiệt độ xuống đến âm 30 độ, hoặc thậm chí, nếu cần, có thể tắm ở lỗ băng trên mặt sông mùa đông, ngoài ra chúng có đặc tính không kén ăn.
Tập tính
Labrador là giống chó rất tình cảm, trìu mến, đáng yêu và nhẫn nại. là giống chó hiền lành, tốt nết. Chúng rất mến trẻ con, lại không đòi hỏi những điều kiện chăm sóc phức tạp, rắc rối. Mức độ thông minh cao, rất trung thành, bền bỉ và vui vẻ. Chúng rất thích chơi đùa, đặc biệt là với nước bởi chúng thực sự thích bơi lội. Labrador là giống chó tốt và đáng tin cậy, rất thân thiện và yêu mến trẻ nhỏ cũng như hòa đồng với các giống chó khác. Chúng cần những người chủ quan tâm và xem chúng như một phần trong gia đình. Chúng rất dễ huấn luyện, một số cá thể có thể khá dè dặt với người lạ, nhưng nếu hòa đồng chúng thì hoàn toàn không có vấn đề gì.
Giống chó Labrador là một trong những giống chó đứng đầu trong bảng phân cấp các giống chó xét theo khả năng hiểu đúng và thực hiện chính xác một số lượng lớn nhất những câu lệnh của người. Những câu lệnh ngắn gọn, khô khan của con người được chúng tôi chuyển hóa thành ngôn ngữ thuộc cấp độ giao tiếp. Những con chó thuộc giống Labrador đều dễ huấn luyện. Điều quan trọng là bạn hãy giải thích cho chó Labrador biết cần gì, không nên dọa nạt, ép buộc chúng. Hãy thể hiện sự bình tĩnh, tế nhị, đồng cảm, nó sẽ đáp lại bằng sự vâng lời, tính kỷ luật và lòng trung thành.
Labrador là giống chó canh gác chứ không phải là chó bảo vệ mặc dù chúng ta vẫn có thể bắt gặp một số con được đào tạo để làm nhiệm vụ bảo vệ. Nên dạy cho Labrador sớm bỏ xích, bởi vì cổ của chúng rất khỏe do vậy sẽ rất vất vả để điều khiển nó bằng xích. Đây là một giống chó được nuôi khá phổ biến. Các khả năng của chúng bao gồm: đi săn, theo dõi, tìm kiếm đồ vật, canh gác, làm chó cảnh sát để phát hiện ma túy, dắt người mù, chó phục vụ cho những người tàn tật, tìm kiếm và cứu nạn, thậm chí là kéo xe. Labrador Anh thường điềm tĩnh, thoải mái hơn Labrador Mỹ. Labrador Anh cũng thành thục sớm hơn.
Labrador có thể được nuôi trong căn hộ nếu như được luyện tập đầy đủ, tuy nhiên chúng tỏ ra không năng động lắm khi ở trong nhà, nên có một cái sân với kích cỡ vừa phải để chúng được thoải mái. Chúng là giống chó khỏe mạnh, do vậy chúng rất hài lòng khi được chơi đùa hay làm việc thường xuyên. Cần có nhiều bài tập thường xuyên cho chúng cộng với một khẩu phần ăn hợp lý để tránh trường hợp trở nên quá béo. Chó Labrador nhất thiết phải được ra ngoài đi dạo mỗi ngày hai lần, không dưới một tiếng đồng hồ. Đó là chủng chó săn, chó thợ, chúng phải luôn có một công việc nào đó mới chịu được. Labrador có bộ lông mượt, ngắn dễ chăm sóc. Mức độ rụng lông là trung bình. Chỉ nên tắm cho chúng khi thực sự cần thiết.
Vật cưng
Chó Lab được nhiều người nổi tiếng trên thế giới nuôi như chó cảnh, có thể kể đến là công chúa Monaco Caroline, vua Gustav của Thụy Điển, tổng thống Estonia Arnold Ruutel, đạo diễn Ý Federico Fellini, các ca sĩ Demis Roussos và Dieter Bohlen, nhà thiết kế thời trang Giorgio Armani, các diễn viên điện ảnh Harrison Ford, Arnold Schwarzenegger, Antonio Banderas, Drew Barrymore, Kevin Costner, Vanessa Paradis và Ted Turner. Chó Labrador cũng được các chính khách như Jacques-Yves Cousteau, Nicolae Ceausescu, Bill Clinton và Francois Mitterrand ưa thích. Trong nhiều thập niên gần đây, chó Labrador thường xuyên có mặt trong các gia đình thuộc hoàng gia Anh. Ở nước Nga, chó Labrador được các nhà lãnh đạo cao cấp hàng đầu như Vladimir Putin, Dmitry Medvedev, Sergei Shoigu yêu quý, các quan chức cấp dưới của họ cũng bắt đầu nuôi chó Labrador.