Pit bull

Pit bull là một giống chó nhà có nguồn gốc từ châu Mỹ, được nuôi ở Anh và nuôi để làm vật giữ nhà và cũng được sử dụng trong những cuộc chọi chó. Chúng là giống chó được chọn giống từ loại chó bun Anh và chó sục. Đây là giống chó dữ, hiếu chiến, bền bỉ, gan lỳ được mệnh danh là sát thủ máu lạnh hay còn được gọi là chó chiến binh hay võ sĩ giác đấu. Thuật ngữ Pit bull bắt nguồn từ tên tiếng Anh gồm pit có nghĩa là cái hố lớn và bull có nghĩa là con bò mộng. Giống chó Pit bull đầu tiên được nuôi ở Anh vào thế kỷ thứ 18 dùng để đấu với các giống chó khác trong đấu trường hay trong một cái hố lớn để phục vụ cho những cuộc chiến máu me. Chúng còn được huấn luyện để đi săn.

Theo nghĩa rộng nhất, thuật ngữ “Pit Bull” có thể chỉ về một trong những giống bao gồm cả Chó sục Pit Bull Mỹ (American Pit Bull Terrier), Staffordshire Bull Terrier, American Staffordshire Terrier, hoặc bất kỳ những giống chó lai đó. Pit Bull được tạo ra với giống lai tạo giữa con chó ngao Anh và chó sục, nhưng mỗi nòi Pit Bull giống chó riêng biệt có một lịch sử phát triển riêng biệt.

Là giống chó nhập ngoại có nguồn gốc từ Mỹ, đặc tính rất hung dữ và hiếu chiến Dòng chó này có nguồn gốc từ châu Mỹ và đang dần được nuôi phổ biến ở Việt Nam. Được coi như hung thần của các loại chó chọi, với sức mạnh của cơ thể cộng với hàm răng sắc nhọn, khi đã xung trận Pitbull được ví như những chiến binh, chúng có thể cắn nhau đến hơi thở cuối cùng. Pitbull được xem là chúa tể của các loài chó chọi.

Trong một số giống chó chọi, Pitbull American được sử dụng trong các cuộc chọi chó nhiều hơn cả và trội về việc bảo vệ lãnh địa, bảo vệ chủ nhân. Có nguồn gốc từ Mỹ, có trọng lượng trung bình từ 30 – 40 kg, trông rất dũng mãnh và sẵn sàng tử chiến khi nhận được lệnh của chủ nhân. Loài vật này có thể đương đầu và hạ gục những con chó to hơn bản thân nhiều lần và không biết sợ hay chùn bước trước bất kì đối thủ nào. Ở Hoa Kỳ, chúng được coi là giống chó nguy hiểm nhất và được sử dụng trong chiến đấu.

Chó sục Pit Bull Mỹ

Đặc điểm

Thể chất

Pit bull là một giống chó tầm trung bình và nhỏ, chúng cao từ 45 đến 55 cm, nặng từ 18 đến 22 kg và có sức mạnh cơ bắp hơn bất cứ giống chó nào khác. Nhìn chung, Pit Bull có ngoại hình khá dữ dằn, chúng có khung xương vững chãi, cơ bắp săn chắc, vai trước vạm vỡ, đặc biệt là đôi mắt đỏ ngầu dữ tợn dưới cái trán to gồ, giống chó này được biết đến với ngoại hình đầy cơ bắp và đặc biệt gây ấn tượng với vẻ ngoài hung dữ, hầm hố[2][10]. Vẻ ngoài cơ bắp và chiến đấu khiến Pitbull dễ bị ác cảm do đó nhiều đồn thổi về giống chó Pit bull một phần vì ngoại hình dữ dằn của loài chó này. Ở Việt Nam, nhiều người dân ở Hà Nội cũng rất thích nuôi loại chó này bất chấp nguy hiểm vì nhìn nó rất dữ tợn có thể trấn áp, uy hiếp được người khác vì chúng nhìn dữ dằn, hồng hộc lao đi như muốn nhảy chồm và dùng hàm răng xé tan bất cứ thứ gì.

Loài chó này còn có một cơ hàm khác biệt, có cấu tạo như khớp khóa, vì vậy khi nó đã cắn vật gì, hay đối thủ thì không dễ nhả ra. Vết thương do chó căn để lại sẽ rất sâu và rộng vì hàm răng của chúng rất dài, sắc nhọn, ở mức độ nhẹ có thể mang tật, nặng hơn có thể nguy hiểm đến tính mạng. Chó Pitt bull sở hữu lực cắn mạnh lên đến 250 pounds/1 inch vuông với bộ hàm khỏe và lực cắn mạnh, lực cắn của chúng có thể lên đến 106.5 kg. Chỉ cần một nhát cắn của một con pitbull bình thường cũng sẽ cướp đi sinh mạng của một con chó khác, ngay cả chó chăn cừu Đức cũng không đáng kể. Một con Pitbull bình thường có thể cắn vào một vật và đu mình 30 phút không biết mệt, điều này xuất phát từ điểm nổi trội của Pitbull là chúng có thể lực tốt và thần kinh tốt, thậm chí một số con có thể kéo cả chiếc ô tô 4 bánh giống như một lực sĩ hạng nặng.

Do Pitbull phải vận động mạnh nên chúng ăn rất nhiều đạm. Loại thịt mà loài chó này thích nhất là thịt bò, mỗi bữa ăn Pitbull có thể ăn đến cả cân thịt bò Trong việc huấn luyện chó chiến đấu, thực đơn ăn uống của Pitbull cũng được quan tâm đặc biệt, một số người cho món ăn thường xuyên của Pitbull là cổ gà,người ta cho Pitbull ăn theo khẩu phần 12 chiếc cổ gà mỗi ngày, chia làm hai bữa. Cứ luộc nguyên cổ gà rồi cho Pitbull ăn, vừa đủ chất lại vừa luyện được răng. Thỉnh thoảng cho Pitbull ăn thịt chó để chúng dữ tợn hơn và tăng cường sức chiến đấu.

Chó sục Pit Bull Mỹ

Tính cách

Chó Pit bull bình thường rất thân thiện và hiền lành, trừ khi chúng bị đe dọa hoặc tấn công, ngoài ra Pit bull còn là loài chó rất trung thành, tình cảm với chủ. Tuy nhiên, điểm nổi bật của giống chó này chính là khả năng chiến đấu. Chúng chiến đấu rất hăng mỗi khi có đối thủ hoặc người lạ xâm nhập vào lãnh địa và sẵn sàng tấn công đối phương đến chết khi giao đấu Dòng chó Pitbull được xếp vào danh mục các giống chó nguy hiểm nhất đối với con người trong tổng số hơn 400 loài chó hiện nay trên thế giới, Pitbull được đứng đầu trong số những loài nguy hiểm nhất, sự nguy hiểm và ham mồi của giống chó này thể hiện ở chỗ khi đã ngoạm vật gì thì chỉ khi vật đó bị đứt lìa thì nó mới nhả ra và chuyển sang ngoạm chỗ khác thậm chí chúng day nghiến vật đó cho đến chết.

Khi bị Pit bull tấn công thì người ta sẽ thấy thương hại cho con chó đã dám tấn công Pitt bull, kể cả khi con chó đó to hơn gấp ba lần. Chúng ít khi bại trận trước những giống cho lớn hơn, hung dữ hơn, điểm nổi bật của chúng chính là sự bền bỉ không gì khuất phục được. Pitbull có thể đương đầu và hạ gục những con chó to hơn bản thân nó nhiều lần, ngay cả chó sói trong các trận đấu trực diện nó không biết sợ hay lùi bước trước bất kì đối thủ nào, khi đã lâm trận, loài chó này còn cuồng hơn cả chó điên, chó dại. Do tập tính lãnh thổ cao, do đó theo bản năng nó có thể tấn công những con chó, thú khác đến cùng thậm chí là những con thú lớn hơn nó nhiều lần. Là loài chó dường như không có cảm giác đau đớn, lỳ đòn, điều này khiến loài chó này sẵn sàng tấn công bất cứ ai.

Dòng chó Pitbull được xếp vào danh mục 11 giống chó nguy hiểm nhất đối với con người trong tổng số hơn 400 loài chó hiện nay trên thế giới. Thậm chí, theo bảng xếp hạng giống chó nguy hiểm thì loài Pitbull được đứng đầu trong số những loài nguy hiểm nhất. Loài chó này là bởi nó hội tụ đầy đủ nhất lợi thế chiến đấu của loài chó như một khung xương vững chắc, bộ hàm hộp không quá dài, một hệ cơ bắp mà không loại chó nào phát triển mạnh như nó, một hệ tuần hoàn với trái tim lớn và một chiến ý mãnh liệt, không biết sợ hay chùn bước trước bất kì đối thủ nào.

Chó sục Pit Bull Mỹ

Huấn luyện

Người ta nuôi và huấn luyện chó bằng nhiều bài cho đến khi vật nuôi đạt độ trưởng thành và hung dữ, đủ để xung trận. Để trở thành một chiến binh, Pitbull phải trải qua những bài huấn luyện công phu. Trung thành là bản tính có sẵn của Pitbull nên việc huấn luyện chỉ nhằm mục đích để cho chúng khỏe mạnh, bền sức và đặc biệt là càng hung dữ càng tốt. Để Pitbull chiến đấu tốt phải cho chúng trở về bản năng gốc, cho nên người ta không đưa chúng vào các trường huấn luyện chó, Pitbull sẽ trở nên ngoan ngoãn và mất hẳn bản năng chiến đấu của chúng.

Mỗi con Pitbull sẽ được chủ huấn luyện theo một cách riêng, nhưng đa phần đều trải qua những bài tập rất chung như quấn xích vào cổ để chạy, có con phải đeo chiếc xích to bằng cổ tay, tương đương trọng lượng cơ thể và tuy chiếc xích có thể nặng đến 40 kg nhưng pitbull vẫn nhấc lên nhẹ nhàng. Người ta còn cho chúng chạy trên máy tập, kéo lò xo, kéo lốp xe, cắn thịt sống… Để có hàm cứng cáp, nướu dẻo như cao su, cơ bắp săn chắc, có người đã xây dựng một hệ thống bài tập tổng hợp cực kỳ nghiêm ngặt. Một đoạn dây cao su to được treo lên trần nhà, chó nhảy lên táp rồi treo lơ lửng, tiếp đến phải xé dừa khô, cắn cây chuối. Thậm chí, chó phải đeo lốp xe hơi lên cổ rồi chạy marathon, tập bơi, chạy bộ.

Khi đã áp dụng những bài tập đó cho Pitbull thì ngày nào cũng phải duy trì đầy đủ, bất chấp điều kiện thời tiết. Các bài tập khác đều có xích để giữ, riêng bài kéo lốp thì phải thả ra cho chúng chạy. lúc thì để chạy theo xe, khi lại cho bơi xuống hồ nước, lúc lại cắn xé chiếc lốp cao su, ngày nào cũng phải dành hàng giờ đồng hồ đi bơi cùng những bài tập dẻo dai khác để tăng cường sức khỏe cho chúng. Ngoài ra, để huấn luyện được một con chó chọi tốt, người chủ nuôi phải kích động thái độ hung dữ của vật nuôi bằng số động vật nhỏ như mèo để nó làm quen và trở lên ngày càng dữ tợn. Ngoài những bài tập thể lực, thỉnh thoảng chủ chó còn có một bài tập dã man, đó là thử chó. Trước mỗi trận đánh, chủ chó thường thử khả năng chiến đấu của Pitbull đồng thời kích thích thú tính của chúng bằng cách mua một con chó sắp bị thịt mang về thả ra cho Pitbull cắn. Thường thì những cuộc chiến không cân sức đó chỉ kéo dài chưa đến 5 phút là con vật hiến thân kia sẽ chết.

Giống chó Pitbull đã thu hút được sự quan tâm của những người đam mê chơi chó bởi ngoại hình khỏe mạnh, sự trung thành với chủ, dữ dằn trong chiến đấu và sự hung dữ, một số người chơi Pitbull đã đẩy chúng vào những trận chiến sinh tử, tàn khốc. Trên thế giới, tại một số nước Nam Á, Nga hay như Trung Quốc lâu nay cũng ưa chuộng trò chơi chọi chó. Tại các nước châu Mỹ, nguồn gốc của những chú chó Pitbull, nơi chúng sống với chủ như những người bạn, người vệ sĩ trung thành. Tuy nhiên, sau khi du nhập về các nước châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng, đa số Pitbull trở thành chiến binh cho những cuộc chiến và cá độ. Pitbull trở thành công cụ kiếm tiền cho những người chủ chó máu mê cờ bạc và việc chọi chó Pitbull rộ lên và có chiều hướng thành phong trào như một thú chơi hành động, mang tính bạo lực.

Một trận chọi chó thường kéo dài nhiều hiệp, mỗi hiệp khoảng 10 phút, chọi đến khi nào có một con thua do chấn thương hoặc chết mới dừng lại. Ngay việc kết thúc một trận chiến, nhiều chủ chó phải sử dụng một công cụ hỗ trợ gọi là banh hàm để tách được 2 đấu sĩ ra do đặc tính của Pitbull đã cắn là không nhả. Một Pitbull trưởng thành chỉ tham chiến mỗi tháng một trận do cần thời gian để phục hồi chấn thương. Chó Pitbull nặng khoảng 30–40 kg/con, rất hung dữ và hiếu chiến thường lao vào cắn xe nhau tàn bạo, thông thường, chó tham gia các cuộc đấu đã ở giai đoạn trưởng thành, nặng khoảng 30– 35 kg, và luôn trong trạng thái hung dữ, bị kích động.

Sau mỗi trận, dù thắng hay thua, chúng đều bị những chấn thương nhất định, nhẹ thì rách da, toác thịt… nặng thì gãy xương hoặc hơn nữa là bị cắn vào các động mạch. Các con chó đều mang đầy thương tích, con nhẹ thì gãy răng, đứt môi, tai, nặng thì có thể mất mạng. Những chú chó đã được huấn luyện để lao vào cắn xé nhau đến nát thịt, tan xương đang phục vụ cho thú chơi cờ bạc, cá độ của con người, sau một thời gian, các chú chó này lại tiếp tục lao vào trận chiến mới và lại một quá trình phục hồi. Sau khi chó đã trải qua các cuộc chọi, bản thân con chó đấy sẽ trở nên hung dữ rất nguy hiểm cho xã hội. Đã có rất nhiều trường hợp ở nước ngoài, chó tham gia chọi chó bất ngờ tấn công trẻ em hoặc cả người lớn. Tại Hoa Kỳ từ năm 2005-2012 bình quân mỗi năm có 19 người bị tử vong ở Mỹ do bị loại chó Pitbull tấn công.

Nguồn gốc Anh
Scotland
Ireland
Hoa Kỳ
Đặc điểm
Bộ lông Mượt

(Nguồn: vi.wikipedia.org)

Dobermann

Doberman là tên của một giống chó có thể nuôi để giữ nhà, canh gác hoặc làm nghiệp vụ. Tên gọi đầy đủ và chính xác của nó là Dobermann Pinscher (theo AKC American Kennel Club). Dobermann là một trong số ít những loại chó được đặt theo tên người (Louis Dobermann). Đây là một giống chó hung dữ, nhưng nếu được đào tạo tốt, nó có thể là những con chó tuyệt vời của gia đình. Với cách tiếp cận phù hợp, chúng có thể dễ dàng đào tạo và sẽ học hỏi rất nhanh. Giống như tất cả các con chó, nếu được đào tạo đúng cách, chúng có thể phù hợp với trẻ em.

Lịch sử

Louis Dobermann (1834-1894), sống ở vùng Apolda, nước Đức, được coi là người đã sáng tạo ra giống chó này, nhưng thực ra, một người bạn của ông, Otto Goeller mới là người đặt tên cho giống này. Goeller đã theo dõi một cách hào hứng những công việc lai tạo giống do Dobermann tiến hành trong một thời gian dài. Sau đó chính Goeller là người đã tiến hành công việc chọn lọc nâng cao chất lượng cho giống chó, bằng cách cho lai tạo từ rất nhiều con chó giống khác nhau mà Louis Dobermann đang có (bao gồm cả chó lai, chó terrier, và các giống chó chăn gia súc), để tạo ra giống chó mà ngày nay chúng ta biết đến với tên gọi Doberman Pinscher.

Louis Dobermann và Otto Goeller không ghi chép lại cách thức, tỷ lệ mà họ áp dụng khi gây giống chó mới, vì thế, không ai biết đích xác Doberman đã được tạo ra như thế nào. Nhưng hiện nay nhiều chuyên gia cùng đồng ý rằng Doberman Pinscher là hậu duệ của các giống chó sau: Rottweiler, German Pinscher, Manchester Terriers, German Short Haired Pointer, và thậm chí cả Great Dane hoặc GSD cũng có thể đóng góp một phần nào đó trong việc tạo ra Doberman.

Ở Việt Nam, thú nuôi chó Doberman hiện nay đã bắt đầu trở nên phổ biến. Nhiều người yêu thích dòng chó này đã tìm cách nhập về, bổ sung cho nguồn gen giống hạn chế trước đây. Hiện nay phần lớn những con doberman đẹp, có vóc dáng và thần thái tốt được nhập khẩu về có giấy chứng nhận thuần chủng đầy đủ, nguồn gốc xuất thân chủ yếu từ các trại chó danh tiếng trên thế giới. Khi Doberman bắt đầu thu hút thì một số lái buôn tập trung nhiều vào dòng Doberman, mua con cái cho sinh sản hay nhập khẩu con cái mang thai từ ngoại quốc nhằm mục đích kinh doanh. Do còn thiếu nhiều kinh nghiệm nên nhiều lái chó đã thất bại. Con giống doberman ở Việt Nam giá vẫn rất cao do số lượng người chơi đông nhưng số lượng con giống còn hạn chế.

Bề ngoài

Một con Dobermann cái có thể cao 65–70 cm và nặng khoảng từ 32 đến 35 kg, trong khi con đực thì vào khoảng 68-72 cm và nặng 40-45kg. Thông thường Dobermann có bộ ngực to khỏe, cơ thể săn chắc vạm vỡ. Nhưng theo xu hướng hiện nay thì người ta ưa chuộng Dobermann gầy và thon thả hơn. Tuy vậy, những con Dobermann to khỏe vẫn được một số người thích chọn.

Doberman con

Màu sắc

Khi nhắc đến Dobermann, đa số mọi người nghĩ đến một con Dobermann màu đen với các viền nâu vàng. Thực tế, Dobermann có 2 gene màu khác nhau (giả sử gene A và B) tương tác để có thể tạo ra bốn loại kiểu hình về màu sắc khác nhau. Con Dobermann với màu truyền thống đen hoặc đen và vàng là do chúng mang allele trội của cả hai gene (A – B –). Một loại biến chủng thường thấy ở Dobermann có bộ lông màu đỏ hay đỏ và vàng là do chúng đồng hợp lặn về 1 gene (vd. A – bb). Đó là cách gọi ở Mỹ còn ở các nơi khác, những con Dobermann như vậy được gọi là màu nâu vì bộ lông phủ toàn màu nâu đỏ sẫm với những viền vàng. Tuy nhiên, đối với những con Dobermann đồng hợp lặn ở gene màu kia (aa B-) thì có màu lông xanh xám. Một con Dobermann có tổ hợp gene đồng hợp lặn ở cả hai gene (aa bb), rất hiếm gặp trong tự nhiên, thì có màu vàng sáng và được gọi với cái tên là “isabella“.

Trong thập niên 1970, một con Dobermann có màu thứ năm, một màu trắng hoàn toàn đã được sinh ra và từ đó di truyền màu lông này cho các thế hệ con cháu của nó. Quá trình nội phối nghiêm ngặt này diễn ra trong một vài thế hệ, theo phương thức mà các nhà chọn giống gọi là “cố định” đột biến, sau đó đã được tung ra thị trường. Những con Dobermann có màu lông như vậy đã mang một đột biến di truyền mới, tác nhân ngăn cản quá trình tổng hợp sắc tố, bất kể nó mang kiểu gene gì trong 2 gene màu nói trên (gene A và B). Thực ra, đó là những con chó mắc bệnh bạch tạng.

Mặc dù nhiều chủ nhân của những con chó Dobermann trắng thì thấy màu lông trắng khá đẹp, nhưng cũng như các con vật bị bệnh bạch tạng khác, chúng mang nguy cơ tiềm ẩn mắc bệnh ung thư và một số bệnh khác. Những con bạch tạng này cần tránh tối đa tiếp xúc với ánh sáng mặt trời. Vì nguy cơ mắc bệnh và chết sớm của những con Dobermann trắng này hầu như là chắc chắn nên ngày càng có nhiều người kêu gọi ngừng ngay việc chọn giống và thương mại những con bệnh bạch tạng, đó là một hành vi đối xử độc ác của con người đối với vật nuôi. Một vài quốc gia đã ban hành luật cấm việc chọn giống nhằm mục đích tạo ra những con Dobermann trắng, nhưng cho phép những nhà chọn giống có thể nuôi dưỡng những con Dobermann này nếu không để việc nội phối tạo ra các thế hệ bạch tạng tiếp theo.

Một con chó Dobermann có tai đã cắt xén và đuôi đã cắt.

Đuôi

Nhìều người ngạc nhiên khi thấy những con Dobermann với đuôi rất ngắn. Thực tế đuôi của Dobermann thường dài hơn những giống chó khác. Nhưng thông thường, đuôi của Dobermann được cắt vài ngày sau khi được sinh ra. Lý do của việc này là Dobermann với đuôi ngắn (gần như cụt) là một điển hình về Doberman, đặc điểm này gắn liền với Doberman, do người tạo ra giống chó này là ông Louis Dobermann đã mường tượng ra chúng như vậy. Đặc điểm này còn làm cho Dobermann trông ngầu và dữ dằn hơn.

Lý do khác là vấn đề công việc khi Dobermann làm nhiệm vụ của chó cảnh sát là bắt cướp. Kể tấn công có thể dễ dàng nắm đuôi Dobermann và điều đó trở thành một điểm yếu. Còn lý do khác nữa là đuôi Dobermann dễ bị gãy nếu để bình thường, một khi đã gãy thì rất khó chữa và sẽ gây đau đớn cho Doberman. Tuy vậy, vẫn có một số ít người muốn Dobermann với cái đuôi nguyên vẹn. Thường thì họ phải đặt vấn đề này với người bán sớm vì chuyện cắt đuôi Dobermann phải được tiến hành sớm sau khi vừa sinh ra.

Tai

Chuyện Dobermann cần phải được cắt tai để có một đôi tai dựng đứng trong khoảng 7 đến 9 tuần đầu từ lúc mới sinh là không chính xác, chuyện này có thể để đến 6 tháng hoặc 1 năm cũng được. Nhiều người tỏ ra không thích chuyện cắt tai Dobermann vì họ nghĩ rằng điều đó làm Dobermann rất đau đớn. Từ trước đến nay vẫn chưa ai đem Dobermann được cắt tai và Dobermann để tai tự nhiên ra so sánh, nhưng người ta vẫn tin rằng Dobermann được cắt tai có thể tránh được những vấn đề về tai như nhiễm trùng cao hơn.

Tính cách

Được lai tạo hàng thế kỷ để trở thành loài chó canh gác, Doberman có được các phẩm chất lý tưởng cho công việc này: Nhậy cảm, nhiệt huyết, có sức mạnh và sự bền bỉ phi thường. Hơn thế nữa, đây là một trong những giống chó vô cùng thông minh và dễ dạy bảo. Quyết đoán, không hề biết sợ hãi nhưng không hoang dã, trung thành, tận tuỵ và tình cảm với gia đình chủ, chó Doberman gần như trở thành một thành viên chính thức của gia đình.Vì Doberman rất thông minh, dễ dạy bảo, có khả năng tấn công, bảo vệ rất tốt nên trong thực tế chúng thường được huấn luyện để phục vụ nhiều mục đích khác nhau (trong đó có cả mục đích xấu).

Phim ảnh đã từng có thời dựng rất nhiều về Doberman như Doberman Gang (1972), Daring Dobermans(1973), The Amazing Dobermans(1976), Eyes of an Angel(1991)….,trong các bộ phim này đôi lúc Doberman xuất hiện với hình ảnh dữ dằn (Doberman Gang) nên nhiều người không hiểu biết về giống này nghĩ rằng giống này hung dữ nhưng thực ra Dobermann rất đáng yêu và thông minh (xem phim Eyes of an Angel), chúng rất hiếm khi tự ý tấn công con người, trừ trường hợp nó cảm thấy có điều gì nguy hiểm đang xảy ra với chủ hoặc gia đình nó hoặc khi nó được huấn luyện và ra lệnh tấn công con người. Trong các cuộc thi về vâng lời, Doberman luôn được đánh giá là giống chó thông minh và vâng lời bậc nhất.

Thể chất

Dobermann là giống chó có sức khỏe rất tốt, ít bệnh tật, tuổi thọ trung bình 11-13 năm. Tuy nhiên khả năng chống chịu thời tiết khắc nghiệt của chúng không được tốt lắm. Ở xứ lạnh vào những hôm nhiệt độ ngoài trời quá thấp có băng tuyết thì không nên để Dobermann ở ngoài trời (vì lông của chúng ngắn, chịu lạnh không tốt bằng nhưng giống lông xù).

Loại chó nguy hiểm

Dobermann bị xếp vào loại chó nguy hiểm tại tiểu bang Brandenburg ở Đức.
Bên Thụy Sĩ, 8 trong 12 bang cũng liệt Dobermann vào loại chó nguy hiểm, và phải xin giấy phép nếu muốn nuôi loại chó này. Ở bang Wallis họ cấm cả việc nuôi, gây giống và nhập cảnh vào.

Tên khác Doberman Pinscher, Doberman
Biệt hiệu Dobie, Dobynm
Nguồn gốc Đức
Đặc điểm
Nặng Đực 40–45 kilôgam (88–99 lb)
Cái 32–35 kilôgam (71–77 lb)
Cao Đực 68 đến 72 xentimét (27 đến 28 in)
Cái 63 đến 68 xentimét (25 đến 27 in)
Bộ lông Ngắn
Màu Đen
Đỏ
Xanh dương
Nâu vàng
Tuổi thọ 9–12 năm

(Nguồn: vi.wikipedia.org)

Các giống chó cảnh đẹp nhất trên thế giới

1. Chó Husky

Chó Husky (chó tuyết kéo xe) có xuất xứ từ Siberia – Nga, rất giống chó sói. Được con người lai tạo lần đầu tiên để kéo xe tuyết chở hàng hóa khắp Siberia. Thân hình những chú chó Husky cân đối, dáng vẻ dũng mãnh và đặc biệt cực kỳ dẻo dai. Bộ lông của chúng rất dày có 2 lớp giúp giữ ấm cơ thể rất tốt, nhưng cũng chính lớp lông này khiến chúng khó thích nghi khi được nuôi trong thời tiết nắng nóng.

Ngày nay, chó Husky gần như không dùng để kéo xe mà thường được nuôi làm thú cưng trong nhà. Với bộ lông đẹp, khuôn mặt ngộ nghĩnh, dáng vẻ thần tuấn nên tại Việt Nam giá của một chú chó Husky có giá khoảng từ 6-10 triệu.

Chó Husky (chó tuyết kéo xe)

2. Chó Samoyed – Chó tuyết kéo xe và chó săn

Chó Samoyed có xuất xứ từ vùng núi Taiga, Tây Bắc Siberia – Nga. Cũng giống như Husky chúng cũng có cơ thể mạnh mẽ, dẻo dai, lớp lông dày có thể kéo xe tuyết trong thời gian dài. Chó Samoyed có địa vị rất cao trong xã hội người Samoyede giúp họ vận chuyển lương thực, săn bắt thú rừng và bảo vệ khỏi kẻ thù.

Tại Việt Nam, một chú chó Samoyed đã được nuôi dưỡng có thể thích nghi với khí hậu nhiệt đới có giá từ 8-10 triệu.

Samoyed có xuất xứ từ vùng núi Taiga, Tây Bắc Siberia – Nga

3. Chó Alaska (Alaska Malamute)

Chó Alaska cũng là một giống chó xứ lạnh giống Husky và Samoyed được thuần hóa bởi bộ tộc Mahlemute. Khi mới bắt đầu thuần hóa, chó Alaska cũng chỉ có kích thước ngang với Husky nhưng được người Eskimo lai tạo để có được những chú chó Alaska to khỏe, dẻo dai và chịu được thời tiết khắc nghiệt hơn.

Với bộ lông đẹp của chó xứ lạnh, chó Alaska đã nhanh chóng được công nhận là 1 trong 10 giống chó đẹp nhất thế giới.

Ở Việt Nam, một chú chó Alaska thuần chủng có giá từ 8-10 triệu.

Alaska (Alaska Malamute)

4. Chó Becgie – Chó chăn cừu

Chó Becgie được người Đức lai tạo lần đầu năm 1899, chủ yếu dùng để chăn cừu. Nhưng với sự thông minh vượt bậc, trung thành, nhanh nhẹn chúng nhanh chóng được huấn luyện để phục vụ trong ngành cảnh sát và quân đội. Theo thống kê, chó Becgie là giống chó phục vụ nhiều nhất trong lực lượng cảnh sát tại các nước trên thế giới.

Tại Việt Nam, chó Becgie cũng được sử dụng rất nhiều trong hoạt động phòng chống tội phạm. Chúng tương đối phổ biến nên chỉ có giá từ 4-7 triệu.

Chó Becgie thông minh vượt bậc, trung thành, nhanh nhẹn

5. Chó Golden (Golden Retriever)

Đây là giống cho có nguồn gốc từ nước Anh, được lai tạo qua nhiều giống chó khác nhau. Nhưng chúng vẫn có bản năng săn mồi rất mạnh, khả năng đánh hơi tìm dấu vết hoàn hảo nên chúng cũng được cảnh sát các nước huấn luyện để dò tìm ma túy và các chất nổ.

Khi sống lâu với con người, chúng trở nên rất hiền lành, thân thiện có đôi chút nghịch ngợm nhưng đặc biệt trung thành. Nên ở Việt Nam chúng được nuôi khá phổ biến và thường có giá từ 4-7 triệu/con.

Golden (Golden Retriever) đặc biệt trung thành

6. Chó săn Poodle

Poodle là giống chó có xuất xứ từ Pháp, có khả năng bơi lội rất giỏi nên từ xưa chúng thường được người dân bản xứ dùng để săn vịt trời. Đặc điểm của chúng là có bộ lông xoăn tít, giữ ấm rất tốt.

Ngày nay chó Poodle có rất nhiều kích thước khác nhau, nhưng với những chú chó Poodle mini được yêu thích hơn cả. Giá của chúng thì cũng dao động rất lớn từ 4-10 triệu/con.

Poodle – chó săn vịt trời

7. Chó Labrador

Labrador là giống chó được coi là phổ biến nhất tại Mỹ, thường được các dân nuôi chó chuyên nghiệp huấn luyện để tha mồi trong các cuộc đi săn. Chó Labrador rất thông minh, có thể giúp con người làm được rất nhiều việc nên chúng thường được coi là một thành viên trong gia đình.

Tại Việt Nam giá của mỗi chú chó Labrador thuần chủng chó giá từ 3-5 triệu/con. Còn chó Labrador gốc Thái bán với giá từ 6-8 triệu.

Labrador là giống chó rất thông minh

8. Chó Doberman

Chó Dorberman được nhà lai tạo người Đức Louis Dorberman nhân giống thành công năm 1890 bởi ít nhất 4 giống chó. Tỉ lệ kết hợp giữa 4 giống chó với nhau gần như đã bị thất lạc.

Chó Dorberman rất dũng mãnh, cơ bắp, cổ cao, ta dụng chân dài và nhanh nhẹn. Một chú Dorberman trưởng thành nặng từ 30-45kg tùy theo giới tính đực hay cái. Bản tính Dorberman khá hung giữ, rất cảnh giác với người lạ nhưng trung thành với chủ nên thường được các gia đình nuôi làm chó giữ nhà.

Chó Dorberman mới phổ biến trong một vài năm gần đây nên có giá khá đắt, thường trên 10 triệu/con.

Doberman hung giữ, rất cảnh giác với người lạ nhưng rất trung thành nên thường được nuôi làm chó giữ nhà

9. Chó Pitbull

Chó Pitbull có nguồn gốc từ Anh, ban đầu có kích thước khá nhỏ bé, nhưng để phục vụ một thể thao “chọi chó” nhiều người tại Mỹ đã lai tạo chúng trở nên to lớn và hung dữ hơn. Và cái tên Pitbull cũng được bắt nguồn từ môn thể thao này. Vào đầu thế kỷ 20 do luật cấm những trò giải trí như “chọi chó” ra đời nên Pitbull được lai tạo cho trở nên hiền lành và dùng để nuôi trong nhà.

Pitbull có một cái đầu to, cơ bắp săn chắc, trông khá hung dữ nên nhiều người rất sợ giống chó này. Nhưng thực tế chó Pitbull còn hiền hơn cả chó Dorberman và chúng chỉ trở nên hung dữ khi bị khiêu khích.

Chó Pitbull rất được giới trẻ trên thế giới yêu thích bởi sự mạnh mẽ của chúng. Một chú chó Pitbull hiện nay tại Việt Nam có giá từ 10-20 triệu/con.

Chó Pitbull có nguồn gốc từ Anh

(Nguồn: tổng hợp)

Chó tha mồi Labrador

Chó tha mồi Labrador thường được gọi với tên thân thuộc là Lab là một giống chó săn phổ biến ở Mỹ chúng thuộc nhóm chó săn mồi (gundog) và thường dùng để tha các con mồi về cho chủ trong các cuộc săn. Tên gọi Labrador có xuất xứ từ chữ “labrador” trong ngôn ngữ Bồ Đào Nha, có nghĩa là người lao động. Trong quá khứ, chó Labrador là giống chó được các thủy thủ, ngư dân Newfoundland và Bồ Đào Nha ưa chuộng nhất. 

Chúng hiền lành, dễ gần và thích ở gần con người, loài chó săn mồi được coi là một trong những loài chó phổ biến nhất ở Mỹ trong những năm qua. Chó Labrador săn mồi rất năng động, đáng tin cậy, đáng yêu, dễ huấn luyện, nhiều người Mỹ coi chú chó này là một thành viên trong gia đình. Ở Nga chúng còn được gọi là “Labriki”, “Laby”, hay “Labukh”.

Một con Lab đang tha một con mồi

Tổng quan

Tổ tiên của chúng là giống chó Newfoundland ở Canada. công việc thường ngày của chúng là giúp những ngư dân kéo lưới bắt cá. Labrador được huấn luyện để nhảy từ trên tàu xuống nước đầy băng tuyết và kéo lưới vây lại giúp những ngư dân bắt cá dễ dàng hơn. Chúng được các thuyền Anh mang về nước vào những năm 1800, và chính ở nước Anh, bản năng tìm kiếm của chúng được phát triển hơn. Chúng cũng trở thành những chú chó gia đình và để bầu bạn bởi bản tính dịu dàng, tình cảm và rất dễ huấn luyện.

Chúng cũng chứng tỏ khả năng trong việc phát hiện thuốc nổ, dắt người mù và giúp việc cho những người tàn tật. Trung thực, điềm tĩnh, thông minh, khi chơi với trẻ nhỏ gây được sự yên tâm cho con người, luôn luôn tự thỏa mãn hài lòng, thích hợp cuộc sống vùng ngoại ô.

Chó săn Labrador có khứu giác đặc biệt tốt, nên trong cả hai thế chiến giống chó này được dùng để truy tìm địa lôi, hiện nay được dùng để đánh hơi tìm các loại độc dược phạm pháp. Về cơ bản Labrador được nuôi trong nhà do đó nên chuẩn bị tốt lồng hoặc phạm vi tương đối rộng cho chúng, bởi giống chó này lớn rất nhanh. Giống chó Labrador chiếm gần tám mươi phần trăm số chó dẫn đường trên toàn thế giới.

Với phương diện là chó săn, chó Labrador là phụ tá vô cùng đắc lực cho thợ săn: hoạt động không mệt mỏi, đánh hơi theo dấu tài tình, hiểu và thực hiện các mệnh lệnh một cách nhanh chóng, tóm tại thuộc hàng xuất sắc trong các nòi chó săn. Chó Labrador có thể tìm kiếm chính xác không bao giờ sai vị trí con mồi bị bắn chết hoặc bị bắn rơi, cả ở trên cạn lẫn dưới nước. Chúng còn có trực cảm tốt, sức chịu đựng dẻo dai, bền bỉ, đặc biệt là khả năng đánh hơi theo dấu máu con mồi dù đã khô sau mấy ngày.

Chó săn thuộc giống Labrador không bao giờ tỏ ra hoảng hốt, giận dữ khi chẳng may bị mất liên lạc với chủ, vẫn miệt mài thực hiện công việc của mình, theo mệnh lệnh mà chủ đã ban ra trước đó. Khi tha con mồi về cho chủ, chó Labrador ngậm nhẹ nhàng đến mức không thể nhận thấy dấu răng trên thân thể con mồi, trong khi đó, với những con chó săn thuộc giống khác, khi con mồi được đưa về cho chủ thì bị giập nát. Chó Labrador tham gia công việc săn bắn không phải do có bản năng hung hãn tự nhiên, mà do ý thức phục tùng người chủ của mình.

Labrador bản tính dịu dàng, tình cảm và rất dễ huấn luyện

Lịch sử

Bắt nguồn từ những con to lớn có tên là Greater Newfoundland, tổ tiên của giống chó Newfoundland hiện tại của Canada, giống nhỏ hơn có tên là Lesser Newfoundland hay St. John’s Dog, giống chó này là tổ tiên của Labrador Retriever và 3 giống chó Retiever khác trên thế giới: Flat-Coated Retriever, Chesapeake Bay Retriever và Golden Retriever, nhưng Labrador Retriever được coi là ít bị lai nhất, vẫn giữ rất nhiều đặc tính của St. John’s Dog. Nguồn gốc của John’s Dog chưa có tài liệu nào ghi lại rõ ràng, vào thế kỷ 15 ở Newfoundland vẫn còn là một vùng hoang sơ, không có chính phủ, chỉ có thổ dân và các tàu đánh cá từ châu Âu tới để đánh bắt loại cá tuyết King Cod rất ngon và có rất nhiều ở vùng biển này, họ đánh bắt cá rồi muối phơi khô để chở về châu Âu.

Những ngư phủ đến từ châu Âu đã đem theo những giống chó trên tàu, và khi họ định cư ở Newfoundland các giống chó này lai với nhau và được chọn lọc theo quy luật tự nhiên để phù hợp với khí hậu và công việc nên tạo ra giống chó Lab, cá thể nào yếu, không phù hợp với khí hậu và chế độ làm việc sẽ chết, việc đánh bắt cá trên tàu hay dưới biển đòi hỏi con chó phải có sức khỏe rất tốt và chịu lạnh giỏi, vì nước biển ở vùng này rất lạnh. Và những giống chó này có thể là những giống chó của Anh và Bồ Đào Nha.

Chúng từng tham gia kéo lưới cá với thổ dân Bắc Mỹ. Mùa đông, nước biển Đại Tây Dương lạnh nhưng chúng có bộ lông dày và lớp lông mao bên dưới không thấm nước nên giữ được thân nhiệt rất tốt. Không chỉ phụ kéo lưới trên thuyền, chúng sẵn sàng lao xuống nước để lùa cá vào lưới và gỡ lưới. Sau mỗi chuyến đánh bắt trở về bờ, chó Labrador còn phụ giúp các ngư phủ kéo cá về nhà.

Có những ý kiến cho rằng những con chó đến từ châu Âu đã lai với giống chó của thổ dân một cách tự nhiên rồi tạo ra giống Labrador. Trước khi người da trắng đến Newfoundland đã có thổ dân da đỏ Beothuks sống ở đó, người ta còn tìm thấy ngôi mộ cổ của thổ dân có chôn theo hai con chó nặng khoảng 45-55 pounds. Họ nuôi để làm bạn với con người và dùng để đi săn, đó là chó của những người thổ dân, và những người châu Âu nhìn lầm nó là những con chó sói. Những con chó của thổ dân được đánh dấu rất nhiều trên tai giống như người ta làm dấu với cừu ở bên Anh.

Labrador là giống chó hiền lành, tốt nết

Sau đó người da trắng châu Âu đã săn lùng và tiêu diệt thổ dân ở Newfoundland, và giống chó của thổ dân Beothuks cũng thoe số phận của những người chủ của nó bị tuyệt chủng. Nếu Lab là giống chó có sẵn ở Newfoundland của thổ dân, thì không hợp lý vì giống chó của thổ dân có cấu trúc gần giống với giống chó Nordic Spitz cổ xưa. Vào thời điểm đó các con chó St. John’s Dog đều chỉ có màu đen và có đốm trắng hai bên má, trước ngực và ở bốn chân, lông ngắn và không thấm nước, lông ngắn để bơi lội ở vùng khí hậu lạnh, khi lên bờ nước bám trên lông không bị đông đá, đây cũng là điểm khác biệt với chó Newfoundland kéo cá ở tren bờ có bộ lông dài.

Vào đầu những năm 1800 người Anh và người Scotland đã du nhập những con St. John’s Dog đầu tiên về nước, và họ phát hiện những con chó này rất giỏi việc tha mồi trong săn bắn, nhất là săn vịt trời hay những con thú ở những vùng ngập nước và họ gọi những con St. John’s Dog này là Labrador Retriever, gọi theo tên vùng biển Labrador ở Canada nơi mà nó xuất xứ, để phân biệt với những con Newfoundland.

Một bá tước người Anh và bá tước người Scotland cũng đã mang những con chó St. John’s Dog về để săn bắn. Sau khi họ chết, con trai của họ đã chính thức nhập về rất nhiều Labrador từ Canada để nhân giống và mở trại chó Labrador đầu tiên ở Anh và Scotland, họ nói rằng họ cố giữ giống chó này thuần chủng như những con St. John’s Dog ở Canada.

Vào thời đó trò chơi săn bắn rất thịnh hành ở châu Âu, nhưng chưa có các hiệp hội công nhận chó thuần chủng và người ta sẵn sàng nhân giống bất cứ con gì có tài săn bắn để hoàn thành nhiệm vụ tốt mà không cần chú ý tới vấn đề thuần chủng nhiều. khiến giống chó St. John’s Dodần dần đi tới tuyệt chủng. Năm 1870, Chính quyền Newfoundland đã ra đời, cho phép mỗi gia đình chỉ được nuôi một con chó vì lúc đó Newfoundland đang phát triển ngành chăn cừu, luật đó để bảo vệ những đàn cừu không bị chó tấn công, và St. John’s Dog đã hiếm dần, đến năm 1930 thì rất hiếm ở Newfoundland.

Năm 1895 ở Anh, ra luật rất khắt khe đối với những con chó nhập vào nước Anh để tránh lây bệnh dịch từ các nước khác, người nhập chó phải có giấy phép, phải đóng thuế rất cao và chó phải bị giữ lại 6 tháng để kiểm tra trước khi cho về nhà với chủ. Chính vì điều này, lại cộng thêm sự khan hiếm giống chó St. John’s dog ở Canada, vì vậy Labrador ở Anh đã phải nhân giống với những giống chó khác để có được giống chó Labrador ngày nay, nhiều khả năng nó được lai với Setter, Spaniels và những giống Retriever khác, vì vậy Lab ngày nay nhìn gần giống với St. John’s dog, nhưng không có đốm trắng ở hai bên mõm và ở chân, chỉ còn đốm trắng ở ngực, và tiêu chuẩn của Lab cũng không chấp nhận đốm trắng ở bất cứ đâu ngoại trừ ở ngực. Ngày nay khi nhân giống những con Lab thuần chủng với nhau thì rất hiếm khi bị có đốm trắng ở mõm, nhưng nếu lai Lab với những giống chó khác thì lại rất thường gặp điều này.

Một con Lab đang tha một con vịt

Đặc điểm

Có hai giống Labrador được biết đến đó là Labrador Anh và Labrador Mỹ. Labrador Anh có nguồn gốc từ nước Anh, và nhìn chung thì có những sự khác biệt giữa các giống này. Labrador Anh có thân hình chắc chắn, người dầy và vuông vức hơn trong khi Labrador nguồn gốc từ Mỹ lại có thân hình cao và thon hơn.

Nhìn chung, Labrador là giống chó rắn chắc và khỏe, thân hình khá dài. Kích thước chiều cao trung bình của con đực từ 56–61 cm, con cái từ 53–58 cm. Cân nặng con đực từ 27–34 kg, con cái từ 25–32 kg. Labrador có đầu rộng, mũi dày và hàm sắc bén, mõm của chúng khá rộng, lực cắn của chúng có thể lên đến khoảng 56,6 kg. Cổ rất mạnh mẽ, cặp mắt màu hạt dẻ hoặc nâu đỏ. Cấu trúc xương ở các chi chắc chắn, giữa các ngón chân có màng giúp chúng bơi lội dễ dàng. Tuổi đời chủa chúng khoảng 10 – 12 năm. Giống Lab rất mạnh khỏe, không có bệnh gì đặc trưng thường gặp ở giống chó này, nhưng cũng giống như tất cả các giống chó khác Lab thỉnh thoảng cũng bị hip dysplasia (hở xương hông), elbow dysplasia (hở xương cùi chỏ), Gastric torsion (bloat) – bệnh đầy hơi, xoắn bao tử.

Chúng có bộ lông ngắn, cứng, dễ chăm sóc. Lông của chúng gần như thẳng, không một gợn sóng, các màu phổ biến là đen, vàng và sôcôla. Labrador thường có nhiều màu biến đổi từ vàng nhạt đến nâu đậm, thậm chí có màu đen nhưng khá hiếm. Trên thực tế còn tồn tại hai màu khá hiếm gặp là màu bạc và màu xám một số người cho rằng màu bạc và xám là kết quả của sự lai tạp, những người khác lại cho rằng đó đích thị chỉ là sự đột biến. Thời gian chúng thay lông, trong nhà đầy lông chó. Chúng có bộ lông không dài và có một lớp lông mao rất rậm bên dưới hoàn toàn không thấm nước. Lông của chúng hoàn toàn không có mùi hôi và khả năng gây dị ứng vô cùng thấp. Bộ lông của chúng đôi khi còn được gọi là “chất chống dính”, vào mùa xuân tuyết tan hay mùa thu mưa dầm, đường sá, sân vườn lầy lội, chúng có bị lấm bẩn đến mấy thì khi lông khô, mọi thứ chất bẩn bám trên mình đều tự rơi xuống hết. Chúng không sợ băng giá và rất ít khi bị đau ốm, có thể đi dạo ngoài trời khi nhiệt độ xuống đến âm 30 độ, hoặc thậm chí, nếu cần, có thể tắm ở lỗ băng trên mặt sông mùa đông, ngoài ra chúng có đặc tính không kén ăn.

Labrador là giống chó rất tình cảm

Tập tính

Labrador là giống chó rất tình cảm, trìu mến, đáng yêu và nhẫn nại. là giống chó hiền lành, tốt nết. Chúng rất mến trẻ con, lại không đòi hỏi những điều kiện chăm sóc phức tạp, rắc rối. Mức độ thông minh cao, rất trung thành, bền bỉ và vui vẻ. Chúng rất thích chơi đùa, đặc biệt là với nước bởi chúng thực sự thích bơi lội. Labrador là giống chó tốt và đáng tin cậy, rất thân thiện và yêu mến trẻ nhỏ cũng như hòa đồng với các giống chó khác. Chúng cần những người chủ quan tâm và xem chúng như một phần trong gia đình. Chúng rất dễ huấn luyện, một số cá thể có thể khá dè dặt với người lạ, nhưng nếu hòa đồng chúng thì hoàn toàn không có vấn đề gì.

Giống chó Labrador là một trong những giống chó đứng đầu trong bảng phân cấp các giống chó xét theo khả năng hiểu đúng và thực hiện chính xác một số lượng lớn nhất những câu lệnh của người. Những câu lệnh ngắn gọn, khô khan của con người được chúng tôi chuyển hóa thành ngôn ngữ thuộc cấp độ giao tiếp. Những con chó thuộc giống Labrador đều dễ huấn luyện. Điều quan trọng là bạn hãy giải thích cho chó Labrador biết cần gì, không nên dọa nạt, ép buộc chúng. Hãy thể hiện sự bình tĩnh, tế nhị, đồng cảm, nó sẽ đáp lại bằng sự vâng lời, tính kỷ luật và lòng trung thành.

Labrador là giống chó canh gác chứ không phải là chó bảo vệ mặc dù chúng ta vẫn có thể bắt gặp một số con được đào tạo để làm nhiệm vụ bảo vệ. Nên dạy cho Labrador sớm bỏ xích, bởi vì cổ của chúng rất khỏe do vậy sẽ rất vất vả để điều khiển nó bằng xích. Đây là một giống chó được nuôi khá phổ biến. Các khả năng của chúng bao gồm: đi săn, theo dõi, tìm kiếm đồ vật, canh gác, làm chó cảnh sát để phát hiện ma túy, dắt người mù, chó phục vụ cho những người tàn tật, tìm kiếm và cứu nạn, thậm chí là kéo xe. Labrador Anh thường điềm tĩnh, thoải mái hơn Labrador Mỹ. Labrador Anh cũng thành thục sớm hơn.

Labrador có thể được nuôi trong căn hộ nếu như được luyện tập đầy đủ, tuy nhiên chúng tỏ ra không năng động lắm khi ở trong nhà, nên có một cái sân với kích cỡ vừa phải để chúng được thoải mái. Chúng là giống chó khỏe mạnh, do vậy chúng rất hài lòng khi được chơi đùa hay làm việc thường xuyên. Cần có nhiều bài tập thường xuyên cho chúng cộng với một khẩu phần ăn hợp lý để tránh trường hợp trở nên quá béo. Chó Labrador nhất thiết phải được ra ngoài đi dạo mỗi ngày hai lần, không dưới một tiếng đồng hồ. Đó là chủng chó săn, chó thợ, chúng phải luôn có một công việc nào đó mới chịu được. Labrador có bộ lông mượt, ngắn dễ chăm sóc. Mức độ rụng lông là trung bình. Chỉ nên tắm cho chúng khi thực sự cần thiết.

Chó Lab được nhiều người nổi tiếng trên thế giới nuôi như chó cảnh

Vật cưng

Chó Lab được nhiều người nổi tiếng trên thế giới nuôi như chó cảnh, có thể kể đến là công chúa Monaco Caroline, vua Gustav của Thụy Điển, tổng thống Estonia Arnold Ruutel, đạo diễn Ý Federico Fellini, các ca sĩ Demis Roussos và Dieter Bohlen, nhà thiết kế thời trang Giorgio Armani, các diễn viên điện ảnh Harrison Ford, Arnold Schwarzenegger, Antonio Banderas, Drew Barrymore, Kevin Costner, Vanessa Paradis và Ted Turner. Chó Labrador cũng được các chính khách như Jacques-Yves Cousteau, Nicolae Ceausescu, Bill Clinton và Francois Mitterrand ưa thích. Trong nhiều thập niên gần đây, chó Labrador thường xuyên có mặt trong các gia đình thuộc hoàng gia Anh. Ở nước Nga, chó Labrador được các nhà lãnh đạo cao cấp hàng đầu như Vladimir Putin, Dmitry Medvedev, Sergei Shoigu yêu quý, các quan chức cấp dưới của họ cũng bắt đầu nuôi chó Labrador.

Tên khác Labrador
Biệt hiệu Lab
Nguồn gốc Canada
Đặc điểm
Bộ lông mượt, ngắn
Lứa đẻ 5–10 chó con (TB: 7.6)
Tuổi thọ 12–14 years

(Nguồn: vi.wikipedia.org)

Chow Chow

Chó Chow Chow (thường gọi tắt là Chow) là một giống chó có nguồn gốc ở phía Bắc Trung Quốc, nơi đây nó được gọi là Tông sư khuyển (Pinyin: 鬆獅犬), có nghĩa là “chó sư tử xù”. Giống chó này cũng được gọi là Đường Khuyển, “chó của đời nhà Đường.” Người ta tin rằng Chow Chow là một trong những con chó bản địa được dùng làm hình mẫu cho tượng đá nghê trấn giữ phía trước cửa chùa Phật giáo và cung đình. Đây là một trong số ít các giống chó cổ xưa vẫn còn tồn tại trong thế giới ngày nay.

Chow Chow màu lông kem

Tổng quan

Trong lịch sử, chúng đã được sử dụng trong các việc như săn bắn, kéo xe và canh gác. Chúng còn được dùng để săn sói, chồn, gà lôi. Chow Chow Từ bao đời nay giống chó Tây Tạng này luôn được coi là chó làm việc, chó canh gác và không được hưởng cuộc sống xa hoa như một vài giống chó khác. Chúng được coi là giống chó bình dân, có họ hàng với giống Laika và được dùng để trông nhà, kéo xe trượt tuyết và săn bắn. Bộ lông dày của Chow chow được sử dụng làm áo lông, ngoài ra thịt của chúng còn là một món đặc sản tại Trung Quốc.

Chow chow có ngoại hình rất giống với hình mẫu chó đá hoá thạch từ hàng triệu năm trước. Được biết đến khoảng 2.000 năm trước tại Trung quốc. Lần đầu tiên được đưa vào nước Anh năm 1800, tên gọi Chow chow xuất phát từ việc người Anh gọi tất cả các súc vật lạ được đưa vào từ miền viễn Đông. Năm 1880 lần đầu tiên một số cá thể dòng lông ngắn của giống Chow Chow, còn có tên chó Katon, được đưa về Anh quốc. Thông qua các cuộc lai tạo được lựa chọn nghiêm ngặt với các giống chó lông dài bản địa, chúng đã trở thành giống chó thượng lưu. Chow Chow là chó cưng của nữ hoàng Victoria và các sau này là nữ hoàng Elisabeth.

Chow Chow màu lông nâu vàng

Đặc điểm

Chow Chow thuộc giống chó có nguồn gốc cổ xưa. Đặc biệt là chúng có dáng của loài gấu nhỏ vùng Tây Tạng và Mãn Châu Lý do có cái lưỡi có nhiễm sắc thể xanh (huyền đề), cái đầu bành to, các cặp chân ngắn và thân hình có kích thước hình vuông (kích thước chiều dài và chiều cao tới vai bằng nhau, giống như các dòng Spitz Đức. Giống chó đòi hỏi sự quan tâm sâu sắc từ người chủ của chúng nếu họ không muốn chúng trở nên hung hăng và mất kiểm soát. Chúng cảnh giác cao độ với người lạ và quyết liệt bảo vệ chủ nhân khi cần thiết và có thể trở nên nguy hiểm.

Chow chow cao từ 18-22 inches (45–56 cm). Cân nặng 45-70 pounds(20–32 kg). Hai đặc điểm đầu tiên để nhận dạng giống chó này là lưỡi có màu xanh đen và bốn chân thẳng, to trông hơi thô làm cho chúng có dáng đi cứng nhắc, trông không được tự nhiên. Tai của chúng tròn và nhỏ. Đầu chó Chow chow to, rộng, trán phẳng, mõm khá to và hợp với mũi thành một khối lồi ra phía trước.Ngực chúng rộng khoẻ mạnh, phần thân sau ngắn gọn gàng. Đuôi xù lông và luôn buông thõng. Loài chó này có thể sống được 15 năm. Đây là một giống chó rất khỏe mạnh. Có khả năng mắc chứng loạn sản. Ngoài ra còn hay mắc bệnh quặm mắt. Chúng phải ăn hai bữa một ngày.

Bộ lông dày và rậm có hai loại khác nhau mượt và thô cứng. Màu phổ biến nhất của giống chó Chow chow này là màu nâu đỏ, đen, lam đen, màu kem, cũng có thể bắt gặp màu xám. Màu trắng được coi là khá hiếm. Đặc biệt chó Chow chow thuần chủng không có bộ lông loang lổ pha lẫn các màu với nhau. Đặc điểm khác của giống chó này là có bờm lớn rất ấn tượng và làm cho chúng có nét giống như loài sư tử. Cần chải lông thường xuyên bằng bàn chải chuyên dụng vì Chow chow có mức độ rụng lông khá nhiều. Loài Chow chow lông ngắn thường hiếu động và dễ dạy bảo hơn loài lông dài.

Chow Chow màu lông đỏ

Tập tính

Chow chow thông thường rất biết điều và ngoan ngoãn, tuy vậy có thể trở nên bướng bỉnh khó bảo. Đây là loài chó chỉ biết công nhận duy nhất chủ nhân của mình, chúng rất trung thành với gia chủ. Nếu bị người lạ tấn công, Chow chow sẽ phản ứng tức thì với tất cả sự hung dữ của chúng. Giống chó rất cá tính này sẽ thích hợp nhất đối với những người chủ mạnh mẽ. Chow chow sẽ phát triển tốt nhất. Không nên trông đợi vào sự tuân lệnh một cách tuyệt đối của chúng, vì loài chó này có tính bướng bỉnh bẩm sinh và thích hành động theo cách của chúng. Dù là loài chó thông minh, có thể dễ dàng tiếp thu các bài học, tuy nhiên, cần phải kiên nhẫn khi dạy bảo chúng.

Nói chung Chow chow hay lấn át và bắt nạt các loài chó khác, tuy vậy chúng lại luôn tỏ ra rất dịu dàng và ngoan ngoãn khi chơi với trẻ nhỏ. Nên cho Chow chow hoà nhập từ lúc còn nhỏ với các vật nuôi khác.Việc dạy dỗ cần được tiến hành ngay từ lúc chúng còn nhỏ. Có thể sống trong điều kiện căn hộ. Tuy vậy, chúng tỏ ra khá thụ động trong không gian hẹp và thoải mái nhất khi ở không gian rộng như là sân vườn. Nhạy cảm với thời tiết nóng quá, tuy vậy có thể sống ở ngoài sân. Chúng tương đối lười biếng nên cho chúng tập các bài thể dục để trở nên thon thả và nhanh nhẹn hơn.

Liên quan

Chow chow liên quan đến tên gọi chó Phúc hay Phúc cẩu của Trung Quốc (Foo Dog) là một giống chó tương tự như Spitz, tưởng chừng đã bị tiệt chủng từ lâu lại được phát hiện vẫn tồn tại, chúng còn được gọi là chó thần Sinkiang hay chó gác đền Trung Quốc, hay thiên cẩu Trung Quốc, hay chó rồng Trung Quốc, hay chó sư tử Trung Quốc. Cái tên Phúc (Foo) của nó xuất phát từ tên vùng Phúc Châu (Foochow) ở nam Trung Quốc nơi chúng sinh sống. Người ta cho rằng chó Phúc là kết quả lai giống giữa chó săn phương bắc với chó Chow chow và bị lãng quên trong thời gian dài.

Tên khác Chow, Chowdren, 鬆獅犬
Nguồn gốc Trung Quốc
Đặc điểm
Nặng Đực 55–70 lb (25–32 kg)
Cái 45–60 lb (20–27 kg)
Cao 17 đến 20 inch (43 đến 51 cm)
Bộ lông Dày và thô
Màu
  • Đỏ (vàng nhạt đến nâu-đỏ đậm)
  • Quế (nâu nhạt đến nâu)
  • Đen
  • Kem
  • Xanh
Lứa đẻ 3–6
Tuổi thọ 11–13 năm

(Nguồn: vi.wikipedia.org)

Chó Dachshund

Chó Dachshund còn gọi là lạp xưởng, xúc xích. Dachshund là giống chó thân dài, ngực nở, bụng hóp, hoạt bát, rắn chắc với 4 chân rất ngắn.

Chúng tạo cho giống chó này một dáng vẻ độc đáo và đầy chất thông thái. Đầu thuôn dài, mắt hơi lồi, mõm dài với bộ hàm khoẻ mạnh cùng những chiếc răng vô cùng sắc bén. Mắt có hình ôvan, màu đỏ sẫm hoặc nâu đen, rất năng động và thân thiện. Tai khá linh hoạt và luôn buông lơ lửng ở hai bên má. Lông của giống chó lông ngắn mượt mà, bóng bẩy và đồng nhất.

Nguồn gốc

Dachshund là giống chó có nguồn gốc từ Đức, được biết đến như một loài chó săn nhỏ. Xuất hiện từ thế kỷ 15, nhưng giống chó này bắt đầu phát triển mạnh ở Đức vào thế kỷ thứ 17. Đến thế kỷ 19, Dachshund được đưa đến Hoa Kỳ và trở thành giống chó phổ biến cho đến ngày này. Tuy trở thành một loại thú cưng, không phải là một thợ săn, nhưng Dachshund vẫn duy trì được các đặc tính độc lập, can đảm và dũng cảm, rất cuốn hút và đem lại cảm giác vui tươi.

Tính cách

Sống động và tình cảm, kiêu hãnh và bạo dạn. Rất thận trọng và ranh mãnh, Dachshund rất thông minh và có thể tìm cách để dạy lại chủ nhân. Rất trung thành và quyến luyến với gia chủ. Xếp vào loại hơi khó dạy bảo. Bộc lộ rõ khả năng bảo vệ. Lúc còn nhỏ rất thích sủa và sủa khá to so với kích thước của chúng. Thích đào bới.

Một con chó lạp xưởng lông ngắn bình thường

Đặc điểm

1.Kích thước

  • Dachshund có 2 kích thước:
  • Trung bình: 16 – 32 pounds
  • Nhỏ: dưới 11 pounds

2.Lông và màu sắc

Dachshund được chia làm ba loại: lông mượt, lông ngắn và lông dài, mỗi loại có cá tính hơi khác nhau.

  • Dachshunh lông mướt là giống thuần chủng.
  • Dachshund lông dài là kết quả của sự đột biến gien và lai tạo có chọn lọc với giống chó Đức Spaniel.
  • Dachshund lông ngắn là sự kết hợp giữa Dachshund thuần chủng, Schnauzers, và Dandie Dinmont Terriers.

Loài chó đơn sắc thường có màu lông vàng hoặc nâu đỏ. Loại 2 màu thường có màu đen sẫm, nâu hoặc xám điểm lẫn màu hạt dẻ sáng.

Điều kiện sống

Có thể sống trong điều kiện căn hộ. Tương đối tích cực trong nhà và có thể sống không cần phải có sân vườn. Đối với loài lông mượt, không cần phải chải lông, nhưng cần được ủ ấm vào mùa đông. Đối với loài lông dài, cần chải lông hàng ngày.

Dachshund nói chung sống lâu và khỏe mạnh (từ 12 -15 năm) nhưng vẫn mắc phải một số bệnh thường gặp, đặc biệt là bệnh đĩa xương sống. Một số người cưng chiều và chăm sóc thú cưng kỹ lưỡng với hy vọng tránh được bệnh này, nhưng do cấu trúc cơ thể, lưng dài, chân ngắn nên việc mắc phải hội chứng này là điều khó tránh khỏi. Ngoài ra Dachshund có thể mắc phải các bệnh về tim, đái đường và béo phì.

(Nguồn: vi.wikipedia.org)

Chó Phốc sóc

Chó Phốc sóc (Pomeranian gọi tắt là Pom) là một giống chó cảnh cỡ nhỏ, có ngoại hình xinh xắn, có nguồn gốc từ châu Âu, chúng nổi tiếng và được ưa chuộng bởi ngoại hình bắt mắt của mình. Với tiếng sủa vang rền, dai dẳng không dứt khả năng cảnh giác cao độ, những con chó này lại có thể trở thành những vật canh giữ cửa tốt. Những ưu điểm khác của giống chó Pom như trông nhà, rất lanh lợi và có thể biểu diễn được những kĩ xảo nhỏ trong điều kiện được luyện tập.Chúng có khuyết điểm rất xấu đó là sức khoẻ kém. Có thể dẫn đến những căn bệnh pravovirus và carre gây tử vong. Đặc biệt là ở chó con.

Tổng quan

Chó Pom được lấy tên từ địa danh Pomerania là vùng đất ở Trung Âu ngày xưa, ứng với miền Tây Bắc Ba Lan và Đông Bắc Đức ngày nay và nguồn gốc của chúng là từ giống Spitz cổ. Lúc đầu, những con chó Pom to hơn hiện nay nhiều với cân nặng có khi lên đến khoảng 13 kg và hay được giao cho nhiệm vụ chăn cừu. Vào năm 1988, Nữ hoàng Victoria đã nhân giống loài chó này và chính bà đã khiến kích cỡ của chúng nhỏ lại và nhờ thế chúng bắt đầu trở nên rất phổ biến ở Anh.

Đặc điểm

  • Ngoại hình

Chó Pom là giống chó cỡ nhỏ, kích thước chỉ cỡ bằng một món đồ chơi, Chiều cao từ 7-12 inches (18–30 cm), trọng lượng từ 3-7 pounds (1–3 kg), chúng có cái đầu hình nêm và rất cân xứng với cơ thể, một số con có gương mặt giống như loài cáo, một số con khác lại giống như búp bê. Đôi mắt chúng hình quả hạnh, to vừa phải và có màu sẫm, trông rất sáng và thể hiện rõ sự linh lợi và thông minh. Tai chó Phốc sóc nhỏ nhắn, nhọn dựng thẳng trên đầu, hàm răng hình kéo và cái mũi be bé sẽ cùng màu với bộ lông. Chúng có cái đuôi xù, trông rất mềm mại và uốn cong lên lưng. Giống chó này cũng có bộ lông kép dày với lớp ngoài dài, thẳng và hơi cứng còn lớp trong thì ngắn, mềm và dày. Lớp lông ở vùng cổ và ngực chúng sẽ dài hơn. Nhìn chung trông chúng nhỏ nhắn xinh xắn, ấm áp và mềm mại. Màu lông của chúng cũng khá đa dạng: có thể là màu đỏ, cam, kem, trắng, xanh, nâu, đen…

  • Thể chất

Chó Pom cũng thuộc một giống chó khó tính trong việc ăn uống, chúng khá kén ăn. Chó Pom rất hay bị rụng lông (lớp ngoài) và lớp lông mềm ở dưới của chó Pom sẽ rụng một đến hai lần một năm. Chó Pom có xu hướng bị trật xương khớp gối, khuỷu chân sau, bệnh tim, viêm nhiễm mắt, sâu răng và bị rụng răng sớm. Nên cho chó Pom ăn thức ăn khô dành cho chó và xương sữa cứng giòn để có thể giúp răng và lợi chúng khỏe hơn. Những con chó Pom mẹ có kích cỡ nhỏ thường được cho sinh mổ. Và giống chó này khi về già cũng có thể phải đối mặt với vấn đề rụng lông và hói. Tuy nhiên, vì lớp lông xù dày nên chủ nuôi cũng cần phải cẩn thận để tránh chúng bị quá nóng. Thường xuyên chải lông cho những chú chó Pom vì chúng có bộ lông hai lớp rất dày và nên dùng dầu gội khô khi cần thiết.

Tập tính

Chó Pom tuy nhỏ bé nhưng tính cách thật sự rất sôi nổi và sống động. Chúng rất thông minh, ham học hỏi và trung thành, tò mò và hiếu động. Tuy tinh nghịch như vậy, nhưng bản tính của chó Pom lại khá dễ bảo và tình cảm, chính vì thế, chúng có thể là người bạn đồng, cũng có thể là một diễn viên xiếc tài năng. Chó Pom cũng khá độc lập, thuộc kiểu nhí nhảnh tự chơi tự vui nên đây là giống chó ít cần đồ chơi. Nên huấn luyện ngay từ đầu, để tránh chúng sủa dai dẳng không dứt. Nếu được dạy dỗ chu đáo thì giống chó này không hề gặp rắc rối gì trong việc hòa thuận với các vật nuôi khác trong nhà. Chúng khá thân thiện nhưng không bám dính chủ nhân. Là loại chó bầu bạn tốt với người cao tuổi.

Giống chó này bị xếp vào một trong những giống chó dễ mắc Hội chứng chó nhỏ (Small Dog Syndrome) đây là hội chứng mà những chú cún nhỏ xinh xắn sẽ rất khó chiều, hay yêu sách và nghĩ rằng mình mới là chủ của con người. Khi chó Pom đã mắc hội chứng này rồi thì không còn là dễ thương hay thông minh mà dẫn đến những vấn đề vô cùng lớn, những dấu hiệu mắc bệnh đầu tiên khi khi hành vi của chúng đã bị ảnh hưởng quá nhiều và có những đặc tính không hề thuộc về giống chó Pom xuất hiện như rất khó tính, đôi khi lại hay lo lắng, bướng bỉnh, liều lĩnh và dám cả gan tấn công cả những chú chó lớn hơn.

Điều kiện sống

Chó Pom có thể thích nghi vô cùng tốt với cuộc sống trong những căn hộ không có sân vì ở trong nhà chúng cũng có thể rất vui vẻ và sống động. Hoạt động Thể Chất Phù Hợp Như hầu hết các giống chó khác, chó Pom cũng cần được dẫn đi bộ hằng ngày. Dù chơi đùa cũng đã có thể là những bài tập thể dục khá tốt cho giống chó này, nhưng bản năng của chúng vẫn là đi bộ, nếu không thì sẽ dễ gặp những bệnh về hành vi và cách cư xử. Nên dẫn chúng đến những nơi rộng rãi, thoáng mát để chúng có thể tự do và thả lỏng bản thân một chút.

(Nguồn: vi.wikipedia.org)

Tên khác Pom
Biệt hiệu Pompom, Pom
Nguồn gốc Đức
Ba Lan
Đặc điểm
Tuổi thọ 12–16

Chihuahua

Chó Chihuahua là một trong những giống chó nuôi nhỏ nhất trên thế giới. Cái tên Chihuahua được đặt theo tên của bang Chihuahua ở México. Giống chó này rất thông minh.

Nguồn gốc

Đây là giống chó lâu đời nhất ở châu Mỹ và là giống chó có thân hình nhỏ nhất trong mọi loài chó trên thế giới. Có nguồn gốc từ Mexico nhưng dường như chúng lại được thế giới biết đến nhờ công của những người Trung Quốc. Chúng chỉ được mang đến châu Âu vào những năm cuối của thế kỷ 19. Tên của giống chó này được lấy từ tên của bang Chihuahua của Mexico, nơi mà các nhà thám hiểm đã tìm ra chúng.

Những người thổ dân da đỏ trước thời Colombo tìm ra châu Mỹ đã tin tưởng rằng giống chó này có liên hệ với các vị Thần thiêng liêng. Những chú chó Chihuahua quý nhất thường có trọng lượng nhỏ hơn 1,3 kg. Những con này có thể đứng gọn trong lòng bàn tay của người lớn. Loài Chihuahua lông dài thường được đánh giá riêng, tuy nhiên về cơ bản thì cũng giống như loài lông ngắn ngoại trừ mỗi tiêu chí về bộ lông. Chihuahua là loại chó làm bầu bạn rất phổ biến.

Đặc điểm

Chihuahua là giống chó nhỏ con có đầu tròn và mõm ngắn. Nó có đôi mắt to tròn, màu sẫm gần như đen, đôi khi là màu đỏ ruby sẫm. Đôi tai đặc hiệu to đùng luôn giữ vểnh. Cún con của Chihuahua ở phần thóp trên đỉnh đầu có một hõm mềm. Lỗ thủng này khi cún lớn lên sẽ được xương sọ che phủ hết. Thân hình chắc chắn, dài hơn so với chiều cao, đuôi uốn cong trên lưng hoặc vắt sang một bên.

Ở Việt Nam rất phổ biến loài lông ngắn, tuy vậy, ở nước ngoài cả hai loại lông ngắn, lông dài đều được coi trọng như nhau. Màu lông thường có các loại màu vàng cát, nâu hạt dẻ, màu bạc, xanh thép, nâu nhạt. Tuy vậy các màu khác cũng đều được chấp nhận, kể cả màu đen nâu và pha trộn lẫn các màu. Loài chó này khá khỏe mạnh so với thân hình mảnh dẻ của chúng. Chúng có lưng bằng và 4 chân thẳng.

Một con chó Chihuahua lông dài, 3 tuổi

Tích cách

Chihuahua là giống chó rất thích hợp cho bầu bạn. Can đảm, cực kỳ sống động, kiêu hãnh và mạnh dạn, chúng luôn bày tỏ tình cảm và cũng đòi hỏi sự chăm sóc của người chủ. Các chuyển động của chúng rất thanh nhã và nhanh nhẹn để tránh bị dẫm phải.Chúng khá nhanh nhẹn,thông minh,có thính giác phát triển mạnh.Chihuahua là giống chó có ý chí mạnh mẽ, đặc biệt trung thành và rất quấn chủ, thậm chí còn có thể biết ghen tỵ. Chúng đặc biệt thích được liếm mặt chủ. Luôn tỏ ra cảnh giác đối với người lạ. Khi có mặt người lạ, chúng luôn lẽo đẽo bám sát chủ nhân từng bước, tìm cách sao cho càng gần chủ càng tốt. Một số cá thể có thể hơi khó dạy dỗ, nhưng nhìn chung đây là giống chó thông minh, học khá nhanh, phản xạ tốt với các bài tập nhẹ nhàng.

Chihuahua có hàm răng rất sắc như là vũ khí để tự vệ. Vì quá bé nhỏ nên khó trốn chạy, chúng có thể cắn lại khi bị trẻ con trêu chọc. Vì vậy nhà có trẻ nhỏ không nên nuôi giống chó này. Có thể sủa ầm ỹ và đòi hỏi chủ phải khá kiên trì trong việc dạy đi vệ sinh đúng chỗ. Cần phải tạo điều kiện cho chúng hòa đồng với các giống chó khác và với người lạ từ lúc còn nhỏ, vì Chihuahua là loại chó khá hung hăng. Đối với các chú Chihuahua khác thì quan hệ có vẻ tốt hơn.

Sức khỏe

Vì có thân hình quá nhỏ bé nên giống chó Chihuahua có khá nhiều vấn đề về sức khỏe. Do có chiếc mũi ngắn nên Chihuahua có thể thở khò khè và thậm chí có thể ngáy khi ngủ. Cặp mắt to quá khổ của chúng dẫn đến việc dễ mắc các bệnh màng sừng tuyến lệ hay đục thủy tinh thể thứ cấp. Dễ bị ngạt thở bởi dây xích cổ, dễ mắc các bệnh về răng lợi, thấp khớp, không chịu được lạnh, dễ bị căng thẳng. Không được để cho chúng liếm hoặc ăn các sản phẩm có độc tính, phân hoặc sô cô la.

Nên cho ăn có chừng mực để tránh bị béo phì. Cún con Chihuahua khi đẻ ra đã có cái đầu khá to, vì vậy cần phải được mổ đẻ bởi các bác sĩ thú y giàu kinh nghiệm. Trong lúc bé, chúng dễ bị gãy xương hay các tai nạn khác. Một số dòng Chihuahua xương chẩm không phát triển hết nên trên sọ vẫn tồn tại lỗ hổng trong suốt đời. Việc này có thể càng làm cho chúng dễ bị tổn thương.

(Nguồn: vi.wikipedia.org)

Husky Sibir

Chó Husky Sibir (Tiếng Nga: сибирский хаски, “Sibirsky hasky”, Phiên âm: “hất-s-ki“)  là một giống chó cỡ trung thuộc nòi chó kéo xe có nguồn gốc từ vùng Đông Bắc Sibir, Nga. Xét theo đặc điểm di truyền, chó Husky được xếp vào dòng Spitz. Chó Husky có hai lớp lông dày, tai dựng hình tam giác và thường có những điểm nhận dạng khác nhau trên lông.

Chó Husky là giống chó rất ưa thích vận động do tổ tiên của chúng sống ở một trong những nơi lạnh giá nhất như Siberia, ở đây chó Husky nguyên thủy được phối giống bởi người Chukchi ở Đông Bắc Á nhằm mục đích kéo xe hàng trên một quãng đường dài trong điều kiện lạnh giá khắc nghiệt. Giống chó này được đưa tới Alaska trong thời kì khai thác vàng ở Nome rồi sau đó trở nên phổ biến ở Hoa Kỳ và Canada. Ban đầu Husky được nuôi để làm chó kéo xe nhưng về sau chúng trở thành thú nuôi trong gia đình.

Lịch sử

Các giống chó Husky Sibir, Samoyed, và Alaskan Malamute đã được công nhận đều có chung nguồn gốc từ một giống chó cổ đại theo kết quả ADN công bố năm 2004.[2][3] Từ năm 1908, chúng được du nhập vào Alaska trong thời kỳ khai thác vàng và được sử dụng là chó kéo xe và chó đua xe. Ở đây, xe kéo bởi vì chó Husky nhanh chóng trở thành phương tiện phổ biến lúc bây giờ. Năm 1930, việc xuất khẩu chó ở Siberia bị dừng lại,[4] cũng là năm mà “câu lạc bộ chó giống Mỹ (AKC) công nhận giống chó Husky Sibir. Chín năm sau, giống chó này lần đầu tiên được đăng kiểm ở Canada. Năm 1938 United Kennel Clubcông nhận giống chó “Husky Bắc Cực” và đổi tên thành Husky Sibir vào năm 1991 cho tới nay.[5] Giống chó Husky nguyên thủy được nuôi và phối giống bởi người Chukchi được cho là đã tuyệt chủng nhưng một phóng viên của tạp chí “Geographical magazine” vào năm 2006 đã đưa ra báo cáo chúng còn sống sau chuyến công tác của anh tại Siberia).

Đặc điểm

  • Lông của Husky Sibir

Lông của giống Husky dày hơn đa phần lông các giống chó khác gồm 2 lớp, một lớp lông dày và ngắn lót phía trong và một lớp lông mỏng hơn, dài hơn bao phủ bên ngoài giúp bảo vệ chúng khỏi cái lạnh khắc nghiệt vùng băng giá. Chúng có thể chịu được cái lạnh từ −50 đến −60 °C (−58 đến −76 °F). Chó husky thay lông tơ thường xuyên, nếu sống cùng con người thì cần chải lông hàng tuần.

Chó Husky Sibir có rất nhiều màu lông khác nhau nhưng hầu hết sẽ có chân, mõm, đốm cuối đuôi là lông trắng. Thường gặp nhất là Husky có màu lông đen-trắng, sau đó là nâu (đỏ)- trắng, xám (phấn) – trắng, trắng, và màu lông hiếm “agouti”.

  • Mắt của Husky Sibir
Husky hai màu mắt
Husky Sibir với hai mắt xanh

Mắt chó Husky hình quả hạnh nhân đặt cách nhau vừa phải và hơi xếch lên. Màu mắt cũng đa dạng như xanh da trời, xanh nước biển, màu hổ phách, xanh lá cây, hoặc nâu. Một số con có thể có 2 mắt với mỗi mắt là một màu khác nhau. Cũng có thể có một hoặc cả hai mắt có màu pha trộn (parti-colored) nửa xanh nửa nâu. Tất cả những màu mắt nêu trên đều được chấp nhận là mắt của Husky “thuần chủng”.

  • Mũi của Husky Sibir

Xếp theo màu lông, chó lông xám thì mũi có màu đen, lông đen thì có mũi nâu, lông nâu thì có mũi đỏ xẫm, và lông trắng thì mũi màu xám nhạt.

  • Đuôi của Husky Sibir
Husky giữ nhiệt cho mũi bằng đuôi

Đuôi của chó Husky dài và rất rậm lông, chúng thường hay cụp đuôi nếu không có hoạt động, khi chạy nhảy hoạt động chúng thường uốn cong đuôi lên lưng để cơ thể có thêm độ ấm. Đây cũng là đặc điểm chung của một số giống chó có nguồn gốc từ xứ lạnh như Akita, Alaskan Malamute hay Samoyed. Khi ngủ chó Husky sẽ vòng đuôi qua mõm để giữ ấm cho mũi như trong ảnh. Chúng sẽ hạ thấp đuôi khi thư giãn và dựng cong đuôi khi phấn khích hoặc tò mò.

  • Kích thước của Husky Sibir

Kích thước được xem là thuần chủng của một con Husky đực là cao khoảng 21 và 23 inch (53 và 58 cm) và nặng 45 và 60 pound (20 và 27 kg). Con cái sẽ bé hơn, nó cao khoảng 20 đến 22 inch (51 đến 56 cm) và nặng khoảng 35 đến 50 pound (16 đến 23 kg).

  • Tính cách của Husky Sibir

Chó Husky được xem là có ngoại hình và hành vi giống với tổ tiên của chúng là loài chó sói. Chúng thích liên lạc, giao tiếp với bằng cách hú hơn là sủa. Chúng có xu hướng đi lang thang và tìm cách trốn thoát sự tù túng. Chó Husky được xem là bậc thầy đào tẩu, chúng có thể đào hầm phía dưới, gặm nát, hoặc nhảy qua hàng rào cao

Đây là giống chó thân thiện với trẻ em, người Chukchi còn sử dụng chó Husky như người bảo vệ con cái của họ. Vì là giống chó có nhiều năng lượng nên đa phần có dấu hiệu tăng động, phá phách khi sống nuôi nhốt trong nhà chật hẹp nên cần có phương pháp tập luyện nghiêm ngặt hơn so với những giống chó khác. Chúng có thể sẽ đuổi theo mèo, thú nhỏ một khoảng cách rất xa và đi lạc, sẽ rất nguy hiểm nếu chúng sống ở một số quốc gia có nạn bắt trộm chó phổ biến như Trung Quốc hay Việt Nam nên dây dắt là công cụ cần thiết khi đi ở ngoài. Ngoài ra tính bầy đàn của Husky rất mạnh nên chúng thích sống chúng với những con chó khác, hoặc người chủ nên thường xuyên ở bên cạnh. Chó Husky sẽ hú khi nó cảm thấy bị bỏ rơi hay cô đơn. Chó Husky thích chạy vì đó là bản năng của chúng. Theo lời khuyên của các chuyện gia, người nuôi chó Husky nên cho chúng chạy ít nhất 2 lần/ ngày để rút bớt năng lượng của chúng, hạn chế sự phá phách trong nhà. Chó Husky đứng thứ 45 trong bản xếp hạng những giống chó thông minh nhất.

Tầm ảnh hưởng

Năm 1925, 2 chú chó Husky tên là Balto và Togo đã trở nên rất nổi tiếng qua câu truyện “Great Race of Mercy”. Chú chó Balto đã chạy liên tục quãng đường dài 53 dặm (85 km) để đưa được huyết thanh cứu người tới Nome, còn Togo là chú chó chạy được quãng đường 91 dặm (146 km), xa nhất thời điểm đó đưa chủ mình từ Norton Sound tới Golovin. Bức tượng đồng của Balto được đặt tại công viên trung tâm thành phố New York từ 1925 như một biểu tượng của lòng trung thành và quả cảm.

Tượng Balto ở Công viên Trung tâm New York

(Nguồn: vi.wikipedia.org)

Tên khác Chukcha, Chuksha, Keshia
Biệt hiệu Sibe, Husky
Nguồn gốc Siberia, Nga
Đặc điểm
Nặng Đực 20½-27kg (45-60 pound)
  Cái 35-50 pound (15,8-22,6kg)
Cao Đực 53-60cm (21-23½ inch)
  Cái 20-22 inch (50,8-55,8cm)
Bộ lông Lông kép dày – lông trong dày & lông ngoài mềm.
Màu Tất cả màu sắc từ đen tới trắng.
Lứa đẻ 6-8 con
Tuổi thọ 12-15 năm

Alaska Malamute

Chó Alaska hay Alaska Malamute hay Mahlemuts là một giống chó kéo xe ở Alaska. Giống chó sói được đặt tên theo bộ tộc Mahlemut là Malamute.

Người Eskimo du mục ở Alaska đã khám phá ra chúng có khả năng di chuyển và kéo xe trên tuyết một khoảng cách rất lớn và liên tục. Họ đã cho lai tạo với những giống khác như chó Newfoundland hoặc St Bernard để có được giống chó ngày càng to hơn, khỏe hơn, bền bỉ hơn, và chịu được thời tiết khắc nghiệt của vùng Bắc Cực. Người Nga đã dùng những chú chó này đê chở lông thú và thịt thú rừng tới những khu vực lân cận để bán và đổi các mặt hàng khác. Giống chó này đòi hỏi được tập luyện hàng ngày nếu không chúng sẽ buồn chán và phá hoại.

Tổng quan

Chúng được những người dân sống tại sống tại vịnh Kotzebue, Vùng đất Alaska nuôi dưỡng và huấn luyện chuyên dùng để làm việc trong thời tiết khắc nghiệt và hết sức lạnh giá của vùng đất Bắc Cực. Khi những người Nga khám phá ra vùng đất bắc cực lạnh giá này thì họ cũng có nhắc đến giống Chó với những đặc điểm mà giống với những gì mà giống Chó alaska đang có. Sau này vùng đất Alaska trở thành 1 bang của Mỹ thì ngẫu nhiên, giống Chó này trở thành một giống Chó của Mỹ. Và chính vì thế, đến năn 1935 American Kennel Club đã công nhận điều ấy.

Những người dân du mục khá tự hào về giống chó của họ vì chúng luôn hoàn thành tốt quãng đường phải vượt qua. Malamute đã được phát triển ở Alaska từ lâu đời, trước khi Alaska trở thành một bang của Mỹ. Việc nghiên cứu và phát triển giống chó này không rầm rộ hay nổi bật như các giống chó khác.

Malamute chủ yếu được nuôi ở gần vùng Bắc cực băng giá và những khu vực có tuyết quanh năm. Tuy nhiên ở một số nơi khác thì chúng được nuôi như vật cảnh trong gia đình. Khi cần di chuyển trên một quãng đường tuyết khá xa thì khó có loài nào có thể thay thế được chó Malamute. Manamute vẫn được lai tạo để phục vụ cho mục đích kéo xe. Một đàn chó kéo đông tạo nên một sức mạnh to lớn để vượt nhiều con đường tuyết phủ trắng với sự nhiệt tình hết mình cho chuyến đi và chịu đựng thời tiết khắc nghiệt. Chúng thay cho bất kì loại hình phương tiện di chuyển nào trên vùng đất phương Bắc này.

Hàng năm tại Canada, Mỹ và một số nước khác có tổ chức những cuộc đua mang tính chất thể thao diễn ra nhằm phát triển giống chó chuyên kéo xe tuyết này. Đôi khi tại một số thành phố hay nông trại thì người nuôi cũng sử dụng chúng với mục đích tương tự nhưng những con Malamute này lại kéo xe có bánh tròn để thồ nông sản và một số vật dụng khác thay cho ngựa. Với những đàn chó kéo trên 15 con trên một quãng đường rất dài thì yêu cầu người nuôi và điều khiển có sự tuyển chọn kĩ càng cho những chuyến đi.

Một con Alaska Malamut

Đặc điểm

Theo sự phân chia của AKC (hiệp hội chó Hoa Kỳ), có tất cả ba loại chó Alaska là Standard (tiêu chuẩn), Large Standard (tiêu chuẩn lớn) và Giant (khổng lồ). Alaskan Malamute có chiều cao trung bình là 63,5 cm và có thể cao đến 68,5 cm và có sự cân đối về chiều cao, cân nặng, cấu trúc xương và cơ bắp. Dòng Giant có thể cao đến 70 cm và nặng tới 75 kg.Xương chân lớn rất cơ bắp để phục vụ cho việc kéo xe. Với hình dáng ngoài không được quý phái, duyên dáng hay có dáng thể thao như một số giống khác mà nó có nét tương đồng với loài sói Bắc Mỹ. Cặp mắt màu nâu, nâu đen hình quả hạnh, tai nhỏ đầy lông tơ. Alaska Malamute đẹp nhất là nhờ bộ lông dày mượt, đặc biệt cái đuôi hình bông lau xõa đều cong ngược trên lưng. Bộ lông dày thô, mềm, bóng và có sắc biến thiên dần từ màu trắng toát ở phần bụng tới màu đen lên đến trên sống lưng và có khuôn mặt rất đẹp với những mảng trắng. Đuôi luôn cuộn phía trên lưng. Giống chó Alaskan Malamute có hai lớp lông ngăn không cho cái lạnh buốt giá ngấm vào cơ thể. Lớp lông dài phía ngoài không thấm nước, lớp lông trong ngắn hơn nhưng rất dày lớp lông trong ngắn và cấu trúc như những sợi lông cừu. Do vậy mà việc chăm sóc lông phải yêu cầu rất nhiều thời gian và chu đáo. Nếu nuôi tại các gia đình thì phải chải lông thường xuyên để tránh lông rụng bám vào thảm hay chăn đệm.

Chó alaska là một trong những giống Chó lao động mà chủ yếu là dùng để kéo xe, chính vì thế chúng sở hữu một bộ khung cao to, chắc chắn rất khỏe mạnh và đặcbiệt là xương chân và các khớp xương chân tương đối phát triển. Loại Chó này rất đa dạng về màu lông, nhưng điển hình là màu xám trắng, xám lông chồn kết hợp với trắng, đen trắng hoặc có thể trắng toàn thân. Dù Chó alaska có màu lông như thế nào đi chăng nữa thì 2 yếu tố màu lông không thể thay đổi đó là mõm và 4 chân phải là màu trắng. Bộ lông của chúng được phân ra thành 2 lớp. Lớp lông dài bên ngoài đặc biệt không thấm nước; lớp lông trong ngắn hơn nhưng rất dày, có cấu trúc như lông cừu. Chó đẹp nhất là nhờ vào bộ lông của chúng, một bộ lông dày, mượt, khỏe, và có cái đuôi cong dài những sợi lông dài, xõa đều trên lưng. Chúng sở hữu đôi mắt có vị trí xiên chéo trên hộp sọ, hình hạt hạnh nhân, màu hạt dẻ và kích cỡ trung bình. Trong khi di chuyển, chúng luôn đứng thẳng, ngẩng cao đầu, 2 mắt mở to và luôn luôn quan sát do Chó alaska rất tò mò, rất nhanh nhẹn hoạt bát, luôn luôn quan sát tìm hiểu mọi sự vật hiện tượng xung quanh.

Tập tính

Chúng thông minh, hiền hòa, luôn biết nghe lời dù là chó cái hay đực và luôn nổi bật trong công việc. Thích trẻ nhỏ và luôn hòa thuận với nhũng vật nuôi khác. Tuy nhiên thường thì Malamute không có thói quen nhặt bóng hay tha đồ vật như một số giống chó săn khác vì mục đích nuôi từ cổ xưa của người Eskimo không vì mục đích săn bắn mà chỉ để kéo xe nên bản tính săn mồi trong nó rất ít. Đặc biệt là không bao giờ tấn công mèo, điều rất khác với đa số các con chó khác. Alaskan Malamute là giống chó thông minh nên có khả năng học tập rất nhanh và rất biết vâng lời. Bản chất rất tò mò và vô cùng hiếu động nên Malamute rất thích được lao động. Alaskan Malamute có thể tự đi rất xa mà vẫn tìm được đường về. Do tập tục sống bầy đàn nên khi nuôi trong gia đình thì chúng rất nghe lời chủ bởi coi chủ như con đầu đàn, luôn phục tùng và có khuynh hướng luôn sẵn sàng bảo vệ đàn của mình khi có kẻ muốn tấn công hay xâm phạm. Malamute có khả năng học và dễ tuân lệnh. Chúng rất thích thú khi được kéo vật gì đó trên những đoạn đường dài cùng bầy đàn của nó. Việc di chuyển trên tuyết trong không gian rộng lớn thì rất tốt.

Chúng thích chạy nhảy ở những nơi rộng rãi thoáng mát và một điều khá hay đó là giống Chó alaska này không có thói quen tha đồ hay nhặt bóng như những giống Chó săn khác vì vốn dĩ ngay từ thời xa xưa, những người dân vùng Bắc Cực nuôi dưỡng và huấn luyện chúng chỉ để lao động mà điển hình là dùng để kéo xe chứ không dùng chúng vào mục đích săn môi như các loại khác. Bản năng kéo xe và di chuyển trên những quãng đường dài dường như nó đã ngấm vào máu của dòng Chó này. Chó Alaska là một trong những giống Chó thông minh nhất thế giới. Chúng có bề ngoài hình giáng giống như một con Chó sói hung giữ và khó gần tuy nhiên trái với những gì so với vẻ bề ngoài của nó thì chó Alaska rất hiền lành, gần gũi rất tinh nghịch nhưng lại biết nghe lời chủ. Chúng sống với chủ nhân của chúng rất hiền hòa, và rất tình cảm. Chó Alaska này đó là chúng đặc biệt rất quý trẻ em

Có một sự kiện diễn ra liên quan đến loài chó này, đó là vụ việc bé gái 6 ngày tuổi được cho là bị chó Alaskan Malamute ăn mất đầu. Bà mẹ đã khi phát hiện con gái 6 ngày tuổi có tên Eliza-Mae Martha Mullane tử vong bên cạnh con chó giống Alaskan Malamut có tên Nisha của gia đình. Người mẹ ba con hoảng hốt nói với người hàng xóm rằng Cháu không biết làm gì nữa. Con chó ăn mất đầu con bé rồi. Cô ấy liên tục hét lên Con chó đã ăn mất đầu con bé. Người chồng đã mua con chó giống Alaskan Malamut ở bên ngoài 1 quán rượu rồi đem con chó đó về vì ai đó nói rằng họ sẽ bỏ con chó đó đi. Con chó Nisha được khoảng 5, 6 tuổi nhưng trông nó già hơn tuổi, trước đó, nó đã bị bạc đãi.

(Nguồn: vi.wikipedia.org)

Biệt hiệu Mal hay Mally
Nguồn gốc Hoa Kỳ (Alaska)
Đặc điểm
Nặng Đực 38.5 kg – 55 kg (85 lb) – (123 lb)
  Cái 34 kg – 45 kg (75 lb) – (100 lb)
Cao Đực 63.5 cm (25 inches)
  Cái 58.4 cm (23 inches)
Bộ lông Dày, hai lớp
Màu xám, đen, đỏ, trắng
Lứa đẻ 4-10 chó con
Tuổi thọ 13-16 năm

Call Now

Chat với Shop